Sau những “chộn rộn” cùng bạn bè chuẩn bị và chào đón đất nước bước sang trang mới sau ngày 30.4.1975, tôi băn khoăn không biết con đường phía trước ra sao, công việc cũ không còn, mình sẽ làm gì để sống và giúp ba mẹ nuôi các em. Sài Gòn lúc này bước vào đợt cải tạo và xây dựng nên có rất nhiều việc phải làm, bạn bè rủ tôi về cơ quan Thành đoàn để được phân vào các tổ công tác, nhưng tôi đành từ chối, dù rất muốn, vì phía sau tôi còn có các em phải lo. Tôi không thể thoải mái “thoát ly” đi ăn ở tập thể như các bạn nhẹ gánh gia đình.

Những ngày này, tại địa chỉ số 370 Lê Văn Duyệt (nay là Cách Mạng Tháng Tám), vốn là trụ sở của tổ chức Thanh Lao Công (Thanh niên Lao động Công giáo), cũng là nơi ở và làm việc của linh mục Trương Bá Cần, tổng tuyên úy Thanh Lao Công, luôn nhộn nhịp kẻ ra người vào. Tôi thường gặp ở đây các linh mục, các tu sĩ nam nữ “tiến bộ” ở Sài Gòn từng có nhiều hoạt động đấu tranh cho hòa bình, các linh mục tập kết ở Bắc về, các anh “Gia Lao Công”, tức Thanh Lao Công thế hệ thứ nhất như anh Nguyễn Đình Đầu, anh Trần Hữu Quảng… Và đặc biệt là sự có mặt của linh mục Nguyễn Đình Thi, người sáng lập và điều hành tổ chức Huynh đệ Việt Nam ở Pháp. Huynh đệ Việt Nam là tổ chức kêu gọi sự giúp đỡ của thế giới dành cho Việt Nam trong thời chiến tranh. Sở dĩ có sự “nhộn nhịp” ở nơi này của những người Công giáo tiêu biểu từng dấn thân đấu tranh cho hòa bình là nhằm cùng nhau tìm ra hướng đi hòa hợp dân tộc, làm chiếc cầu nối giữa Giáo hội Công giáo Việt Nam và chính quyền mới để cùng nhau góp phần xây dựng đất nước sau chiến tranh. Hầu hết, với tôi, đây là những người thân quen và tôi thường đến đây để xem các anh chị có làm gì thì mình tham gia.
Một hôm, cha Trương Bá Cần đột nhiên hỏi tôi: “Cô định làm gì để sống?”. Tôi thưa thật: “Dạ, con cũng chưa biết làm gì”. Suy nghĩ một hồi, cha nói: “Cha Nguyễn Đình Thi chuẩn bị đưa tờ báo Công giáo và Dân tộc của tổ chức Huynh đệ Việt Nam ở Pháp về đây, cô có muốn làm không?”. Nghĩ nghề báo là cái gì đó thật cao sang mình không với tới, tôi định lắc đầu, song chợt nhớ đến hoàn cảnh thất nghiệp hiện tại, tôi rụt rè hỏi cha: “Con chỉ biết đánh máy thôi, được không cha?”. Cha Cần khoát tay: “Thiếu gì việc để cô làm, biết đánh máy thì tốt quá”. Vậy là tôi thành thư ký đánh máy cho cha Cần ngay từ khi tờ báo chưa ra đời, lúc ấy đâu chừng giữa tháng 5.1975. Nghề đánh máy đến với tôi cũng thật tình cờ. Trước kia, do công việc đòi hỏi, tôi chỉ biết đánh máy tiếng Anh, nhưng khi tham gia sinh hoạt phong trào cùng các bạn, khi làm báo Chọn, hoặc báo Giao, những đặc san của phong trào Thanh Lao Công, Sinh viên học sinh…, hoặc cần có những tập bài ca, tôi tập đánh máy tiếng Việt và vì đánh nhiều nên tốc độ cũng khá. Có lần đi ngang nghe tiếng máy rào rào của tôi, cha Cần nói đùa: “Chắc cô này sinh ra để đánh máy!”. Nhưng có một người không nghĩ như cha Cần, người đó là linh mục Nguyễn Đình Thi. Khi báo Công giáo và Dân tộc ra mắt bản đầu khoảng chừng hơn hai tháng (tuần báo), một lần đi ngang chỗ tôi ngồi đánh máy, cha Thi dừng lại, nhìn thẳng vào mặt tôi, nói: “Cô còn trẻ, ngồi đây làm gì cho phí, đứng dậy, đi viết bài đi, tờ báo đang cần phóng viên, chỗ này để cho mấy ông bà lớn tuổi”. Nghe như sét đánh bên tai, tôi lắc đầu: “Dạ thôi, con đâu biết viết báo, con đánh máy được rồi”. Cha Thi nói như ra lệnh: “Không biết thì học, tuổi trẻ thì cái gì chẳng học được, ngày mai tôi không muốn thấy cô ngồi gõ gõ ở đây nữa!”.
Không biết cha Thi nói với cha Cần thế nào mà sáng hôm sau, tôi vào tòa soạn, được dắt vào phòng phóng viên. Đề tài đầu tiên tôi được cha Cần trực tiếp giao là đi phỏng vấn linh mục Phan Khắc Từ, lúc ấy đang là công nhân Sở Vệ sinh, nói nôm na là cha đi hốt rác. Việc một linh mục không ở nhà thờ lo kinh kệ mà đi làm công việc được cho là “dưới đáy xã hội” đã dấy lên không ít dư luận phản đối trong giới Công giáo, vì vậy, mục đích của bài phỏng vấn là truyền tải thông điệp mà cha Phan Khắc Từ muốn nhắm đến khi chọn công việc đồng cam cộng khổ với người lao động bần cùng, với cha, đó là cách rao giảng Tin Mừng thiết thực nhất. Tôi vốn đã thân quen với cha Từ trước đó, từ những ngày còn sinh hoạt Thanh Lao Công sôi nổi, nên cuộc trò chuyện cũng được diễn ra nhanh chóng và thấu hiểu. Tôi về viết với tâm thế một người thân chia sẻ bằng văn phong nhẹ nhàng pha chút “nghịch ngợm”, không phải là kiểu phỏng vấn lạnh lùng của một phóng viên ngoài cuộc. Có lẽ điều đó khiến người đọc yêu thích và tôi may mắn được khen ngợi ngay từ bài báo đầu tiên, coi như vượt qua được bài thi và chính thức trở thành phóng viên. Tòa soạn thuở ban sơ chỉ có 8 người làm nội dung: 1 thư ký tòa soạn, 1 họa sĩ trình bày, 1 phóng viên ảnh, còn lại 5 người lo bài vở, chỉ mình tôi là nữ. Tôi chưa bao giờ thấy giới tính của mình là một trở ngại như khi được phân công theo dõi viết bài về cuộc họp đầu tiên sau ngày đất nước thống nhất của Hội đồng Giám mục Việt Nam. Trong một không gian trang nghiêm toàn các bậc nam giới đáng kính, tự nhiên xuất hiện một cô gái trẻ cứ lấm la lấm lét gặp vị này vị kia để xin thông tin, vừa tác nghiệp vừa phải trốn vì sợ bị ban tổ chức đuổi. Cuộc săn tin vất vả, nhưng cuối cùng tôi cũng viết được bài tường thuật, đó là một kỷ niệm nhớ đời mà sau này trong một dịp mừng sinh nhật báo, tôi đã tự kể bằng bút ký “Thân gái dặm trường”, khiến cha Cần, người giao công việc này cho tôi, sau khi đọc cũng phải ngạc nhiên thốt lên: “Tôi đâu ngờ là cô phải vất vả như vậy!”.

Trong số 8 “nhà báo” ban đầu chúng tôi, hầu hết đều xuất thân từ các dòng tu, được hấp thụ một văn hóa nền khá chắc, nhất là về trình độ ngoại ngữ, song chưa ai qua trường lớp báo chí. Vì vậy, khi báo ra đời độ chừng hơn một năm, cha Cần mời hai chuyên gia từng làm báo ở Sài Gòn trước đây đến để kèm cặp chúng tôi. Đó là anh Hoàng Ngọc Nguyên, mảng kinh tế và nhà văn Diễm Châu, lĩnh vực văn hóa nghệ thuật. Các anh dạy chúng tôi bắt đầu bằng những điều cơ bản nhất, từ cách viết tin cho đến phỏng vấn, phóng sự…, sửa chữa góp ý ngay trên những bản thảo chúng tôi nộp tòa soạn. Ban đêm, chúng tôi được theo học lớp báo chí cách mạng do Mặt trận Tổ quốc tổ chức dành cho các báo thuộc Mặt trận quản lý tại báo Giác Ngộ, mà các giảng viên là những nhà báo nổi tiếng ở TPHCM và Hà Nội. Cứ như vậy, sau hai năm, chúng tôi “tốt nghiệp” cả hai nền báo chí: tư bản và cách mạng: một bên trang bị kỹ năng, bên kia hoàn thiện nội dung. Nhờ vậy, dù không được đào tạo chính quy ở một học viện báo chí nào nhưng những kiến thức từ hai lớp bồi dưỡng thực tế này đã giúp chúng tôi ngẩng cao đầu khi sát cánh cùng các đồng nghiệp ở các báo bạn trong suốt nhiều chục năm sau. Cho đến bây giờ, tôi vẫn vô cùng mang ơn báo Công giáo và Dân tộc, nhớ sự chăm lo nhìn xa trông rộng của cha Trương Bá Cần… Tôi coi nơi đây chính là Học viện Báo chí của mình.
Vỏn vẹn chỉ có tám người nên chúng tôi như một gia đình, yêu quý linh mục Trương Bá Cần như người cha hơn là một thủ trưởng cơ quan. Ngài là một người cha thuộc dạng “thương cho roi cho vọt”, luôn khắt khe đòi hỏi mỗi người phải tiến bộ từng ngày. Hơn hai năm xuất bản, báo thu nhận thêm một lớp phóng viên mới để đào tạo. Hai thầy Hoàng Ngọc Nguyên và Diễm Châu vẫn tiếp tục hướng dẫn các bạn và chúng tôi trở thành “anh chị”. Tòa soạn bắt đầu đi vào chính quy, gồm hai ban: kinh tế chính trị và văn xã. Tôi làm trưởng ban văn xã, trưởng ban kia là bạn Nguyễn Trung Thành. Tờ báo xuất hiện trong hoàn cảnh cộng đồng Dân Chúa phần đông còn hoài nghi chính quyền mới, chưa kể có những dư luận ác ý xuyên tạc mục đích của báo nên số phát hành chưa cao, chúng tôi, ngoài việc lo bài vở, phải chia nhau về các giáo xứ, vào từng nhà chào mời, giải thích, đồng thời tìm hiểu xem họ mong muốn điều gì để có thêm đề tài cho các số báo sau. Đối với tôi, đây là công việc thú vị nhưng cũng khá mệt mỏi, vì lắm khi lời mình nói như nước đổ lá môn, không dễ gì phá bỏ định kiến đã nằm sâu trong tiềm thức của họ và đôi khi chỉ được an ủi khi thấy số phát hành tăng lên chút ít. Tờ báo nhỏ nhưng về hình thức, được đánh giá là một trong vài tờ trình bày đẹp nhất nước. Họa sĩ Đỗ Cung của báo được không ít họa sĩ trẻ của các báo bạn đến xin “tầm sư học đạo”.
Thuở ấy, khắp đất nước đâu cũng khó khăn, báo Công giáo và Dân tộc lại càng nghèo vì ngoài tiền bán báo, không có thu nhập gì khác. Thời gian đầu, lương của chúng tôi là hai bữa cơm tập thể và vài đồng dằn túi, gọi là sinh hoạt phí. Thấy đất trong khu nhà còn trống, cha Cần cho xây chuồng nuôi heo tự cung tự cấp. Cả tòa soạn chia nhau chăm sóc khoảng vài chục chú ỉn, các nhà báo cứ chiều chiều là “xếp bút nghiên” cầm vòi xịt nước rửa chuồng. Riêng tôi đặc trách việc đi mua rau, khoảng vài ba ngày lại lên chiếc xe jeep của cha Cần, nhờ tài xế đưa đến cánh đồng rau muống ở phường 13 quận Tân Bình, cắt đầy một xe mang về. Heo đến lứa thì bán lấy tiền cải thiện bữa ăn, phân heo còn lại làm bình ủ biogaz. Một hôm gần sáng, mọi người bỗng nghe một tiếng nổ lớn, hoảng hồn không biết chuyện gì, té ra chiếc bình biogaz bị nổ, phân heo tràn cả ra đường khiến việc lưu thông trên con đường phía trước tòa soạn trở nên rối reng, chúng tôi phải mất cả giờ đồng hồ xách nước ra quét rửa để trả lại mặt đường sạch sẽ. Theo phong trào thời đó, hằng năm tòa soạn đóng cửa vài tuần, cho chúng tôi đến nông trường Thái Mỹ (Củ Chi) để tham gia đào kênh. Những chuyến đi này thật vui, với tôi, như một dịp đi đổi gió, đồng thời cũng có thêm chút ít trải nghiệm định luật Archimedes thú vị hiếm khi có trong đời, như khiêng một cục đất to đi dưới nước sẽ nhẹ hơn rất nhiều so với khi chuyển nó lên ở trên.
Công tác ở báo Công giáo và Dân tộc được gần sáu năm, tôi được Ban Biên tập báo Tuổi Trẻ qua xin về. Vì có nhiều bạn bè ngày trước đang công tác ở đó, đồng thời, cũng muốn có môi trường làm việc phù hợp hơn nên tôi đành chia tay nơi đã đưa mình vào nghề báo. Trước đây, có lần đi họp về, linh mục Huỳnh Công Minh (Tổng Biên tập khi đó) gọi tôi vào nói: “Anh thấy em có triển vọng tiến xa trong nghề báo, ở đây có vẻ hơi chật hẹp, em có muốn về báo Phụ nữ Thành phố không? Anh đã trao đổi và được chị Phương Điền (Tổng Biên tập báo Phụ nữ) đồng ý nhận, bây giờ em qua là làm ngay”. Tôi thưa, dạ không, em còn nhiều cái phải học, cứ ở đây đã. Nhưng bây giờ, tôi nghĩ, đã đến lúc mình cần thử sức ở môi trường mới xem sao. Và không ngờ, thoắt cái, tôi đã đi hết một chặng đường làm báo dài đến gần 50 năm.
Dù không còn biên chế ở báo Công giáo và Dân tộc, nhưng nhiều chục năm qua, tôi chưa bao giờ có cảm giác cách xa. Với tôi, cái ơn đào tạo, biến tôi từ không thành có, cho tôi một nghề nghiệp cao quý trải dài suốt cả cuộc đời, đã trở thành máu thịt, luôn sống trong cơ thể mình. Một lần, có một kênh truyền hình giới thiệu tôi trong chuyên mục “Thành phố tôi yêu”, hỏi tôi về những nơi đã gây dấu ấn sâu đậm trong cuộc đời. Tôi đã dẫn họ về ghi hình báo Công giáo và Dân tộc, nói đây là nơi đã nhào nặn tôi thành một nhà báo. Và rồi như có một sợi dây thiêng liêng nào đó ràng buộc, sau khi tôi rời đi, bỗng dưng một ngày, chồng tôi - họa sĩ Nhốp lại trở thành cộng tác viên thân thiết của báo. Tuần nào tòa soạn cũng dành cho anh một góc “biếm họa”, kéo dài hàng mấy chục năm nay. Nhờ vậy, không những tôi luôn có báo để đọc, lại thỉnh thoảng còn được tham gia những cuộc vui của anh chị em tòa soạn, lại là người nhà như thưở ban đầu.
Năm mươi năm, báo Công giáo và Dân tộc đã có một bước tiến rất xa. Về hình thức, tuy giản dị nhưng bắt mắt, kế thừa được sự tinh tế, lịch lãm, thế mạnh của họa sĩ Đỗ Cung ngày nào. Về nội dung, đề tài phong phú, đi sâu được vào cuộc sống đạo đời của nhiều thành phần Dân Chúa, vươn ra cả thế giới, những việc mà thời kỳ đầu chúng tôi làm chưa nhiều hiệu quả. Và có một điều hơn thế nữa mà cứ mỗi lần nghĩ tới, tôi đều muốn rơi nước mắt vì xúc động. Đó là sự hiện diện của các vị giáo phẩm trong trang báo, từ các linh mục, các nữ tu, đặc biệt là các Đức Giám mục khắp mọi miền… Ngày trước, dạng cộng tác viên này của chúng tôi quanh đi quẩn lại cũng chỉ không quá chục vị, hầu hết là những người cùng chí hướng trong phong trào chống chiến tranh đòi hòa bình. Tôi đi đến các giáo xứ gặp các cha mời mua báo đã khó, xin để viết bài về họ còn khó hơn, có nơi nghe nói có phóng viên báo Công giáo và Dân tộc đến là đóng cửa không tiếp. Vậy mà giờ đây, cầm tờ báo lên là thấy không ít tên các vị với những bài viết sâu sắc và không thiếu đời sống thực tế. Những người làm báo đã trở thành “người nhà” của không ít các Tòa giám mục, các nhà xứ, các dòng tu… Mừng cho tờ báo đã thực hiện được một cách tuyệt vời chức năng làm cầu nối giữa Công giáo và Dân tộc. Điều mà thế hệ mở đầu chúng tôi ngày ấy, dù rất nỗ lực, vẫn hãy còn trong mơ ước.
Năm mươi năm nhìn lại, có một chút ngậm ngùi vì nhiều người trong số những kẻ mở đường cho báo Công giáo và Dân tộc thuở xưa đã không còn nữa: cha Trương Bá Cần, cha Nguyễn Đình Thi, cha Vương Đình Bích, cha Phan Khắc Từ, anh Nguyễn Đình Đầu, anh Trần Hữu Quảng, các nữ tu dòng Thiện Bản phụ trách trị sự như sơ Bảo, sơ Lan, sơ Thảo… Lớp 8 người chúng tôi, ngoài bạn Lê Quang Hưng đã về nước Chúa, những người khác phần đông đang định cư ở nước ngoài và đều đến tuổi “cổ lai hy”. Nhưng có lẽ, trong tận đáy lòng, ai cũng tự hào vì đã để lại một di sản quý báu là tờ báo Công giáo và Dân tộc, tuy nhỏ bé, khiêm tốn nhưng lại có một sức sống lâu bền và ngày càng chứng tỏ tại sao mình tồn tại qua nhiều giai đoạn thăng trầm. Bây giờ, mỗi lần đi ngang qua trụ sở báo, nhìn cơ ngơi khang trang, dẫu không khỏi bùi ngùi nhớ về hình dáng ngôi nhà cũ, lòng tôi vẫn rộn lên niềm vui, tin rằng con đường phía trước của báo Công giáo và Dân tộc sẽ luôn vững chãi, hiên ngang, như chính ngôi nhà mới xây. Và trong đó, tôi vinh dự là một phần của ký ức.
Cát Vũ
Bình luận