Tôi từng ru con, bế trên tay con gái bé bỏng giữa đồng không mông quạnh của một thôn làng miền Tây và hát dìu dặt. Có khi chỉ là một bài thơ phổ nhạc của Trần Đăng Khoa: “Hạt gạo làng ta, có vị phù sa của sông Kinh Thầy, có hương sen thơm của hồ nước đầy, có lời mẹ hát ngọt bùi hôm nay…” - đó là bài thơ tôi rất thích khi còn học phổ thông. Bé ngủ ngoan khi có lời hát ấy, thành quen. Người cha sinh ra ở thị thành không có vốn đồng dao, dân ca hay các điệu hát ru xưa cũ để ru con, nên “hát” theo cách ấy, “ru” bằng tình thương.
Lớn rồi, trung niên, mỗi khi đi đâu đó ngang qua ngôi nhà có tiếng mẹ, tiếng bà hát ru con trẻ nghe còn thấm, nói chi còn trẻ con. Có một phân tích rằng tiếng hát ru góp phần nuôi dưỡng tâm hồn con trẻ từ thuở nằm nôi, giống như hình ảnh Mẹ Maria được đặt trang trọng trong phòng người mẹ mang thai, đã gieo sự an lành cho hài nhi từ lúc tượng hình. Rồi chợt nhận ra rằng bây giờ các bà mẹ trẻ của thế hệ hôm nay ít hoặc không còn hát ru con nhiều!

Để ý ở một phòng game online nọ, khi cô con dâu trẻ sinh em bé, bà chủ là nội nên cưng cháu, bồng bế suốt, nhưng chỉ vậy mà thôi, bặt không bao giờ nghe lời bà ru cháu, với con dâu lại càng không. Khi tôi hỏi cắc cớ “chị không biết ru sao?” thì nhận được nụ cười trừ. Cô con dâu chắc chắn không biết bởi đơn giản, cô không được thừa hưởng “vốn” lời ru từ mẹ hay bà. Ngoài Bắc, các nhà thơ thường kể vốn thi ca được bồi đắp từ thuở ấu thơ, qua những lời ru của mẹ, của bà. Vùng đất mà lẩy Kiều, hát Kiều, ru con cháu bằng Kiều thành nếp văn hóa đẹp đẽ. Trung, Nam cũng vậy, theo cách riêng, qua lời ru hời chuyển giá trị dân ca, thi ca vào hồn con trẻ. Kho tàng hát ru của Nam Bộ cũng không hề ít ỏi cạn cợn, mà sâu sắc phong phú lắm.
Nhân duyên, tôi quen một cô bạn, thành thân. Khi hàn huyên, cô kể về thuở thiếu nữ mưu sinh xa nhà lên tận Tây Nguyên, ở nhà người ta phụ việc, ông bà chủ cùng đi công chuyện bỏ cháu bé cho cô trông. Bối rối, lúng túng vì chưa từng chăm em bé, vậy mà khi đứa bé khóc cô bồng lên nhìn ra non xa khẽ hát lời dịu dàng: “Chiều chiều ra đứng tây lầu tây, tây lầu tây…”. Bao nhiêu năm cô vẫn nhớ như in khung cảnh và lời hát ru của chính mình. Người phụ nữ ấy giờ đây có lẽ không thuộc về số đông. Tôi cũng vừa “phỏng vấn” một bà mẹ trẻ: “Cô có bao giờ hát ru mấy nhỏ không?”, “Không bao giờ anh ơi! Em tập cho tụi nó tự lập từ bé, cho bú cho ăn rồi bỏ đó, thằng lớn giữ và tắm cho thằng nhỏ luôn!”- cô trả lời nhanh như vậy. “Hay cô không biết ru?”- tôi cố “dí”. Cô nói mình biết, thuộc nhiều bài ca dao, nhưng không quen ru, không nhiều thời gian, tâm trí để ru.

Con trẻ đất Việt không chỉ được nuôi nấng bởi “hạt gạo làng ta”, cọng rau con cá quê nhà, mà còn bởi và không thể thiếu khí trời đất Việt, các tầng sâu văn hóa qua lời ru của bà của mẹ, các trò chơi dân gian… Thiếu lời hát ru, bao nhiêu sữa, bánh, vẫn không tròn đầy tuổi thơ? Thời đại vội vàng, tất bật là cái cớ biện minh cho các bà mẹ bỏ qua “công đoạn” hát ru.
Trên cao nguyên xa quê mưu sinh cơ cực, cô gái trẻ ngày nào trút nỗi nhớ nhà nhớ mẹ qua lời ru em nhỏ con nhà người ta: “Chiều chiều ra đứng, tây lầu tây, tây lầu tây, thấy cô tang tình gánh nước, tưới cây tưới cây ngô đồng…”. Phải chăng cô là một trong số ít phụ nữ ngày nay còn mang theo vốn quý - những bài hát ru - khi bước vào đời sống hôn nhân, trong khi nhiều người dường như đã quên truyền thống này?
Xin kết bài bằng mấy câu thơ của Nguyễn Duy trong bài “Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa”, như một lời nhắc nhớ:
“Mẹ ru cái lẽ ở đời
Sữa nuôi phần xác, hát nuôi phần hồn”.
Nguyễn Thành Công
Bình luận