Năng nổ, nhiệt tình, vui tính...là ấn tượng đầu tiên của tôi về linh mục Gioan Nguyễn Huy Quang – cha sở xứ truyề giáo Tân Hóa, hạt Tân Thạnh, giáo phận Long Xuyên. Dân trong vùng kể ông cố bình dân lắm, dễ thương lắm, mới về đây hai năm mà đã làm được khối chuyện. Hình ảnh cha sớ với đôi dép lê, quần đùi áo thun cùng cánh thanh niên leo lên từng cây cột điện để bắt bóng đèn đường giữa cái nắng trưa gay gắt; hay lui lui tới tới, phụ phụ trộn trộn những mẻ bê tông tươi cho đám thợ sửa cầu...đã quá quen thuộc với bà con nơi đây.
![]() |
Linh mục Gioan Nguyễn Huy Quang |
Nơi cái nghèo bám riết…
Từ ngã ba Lộ Tẻ thuộc quận Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ, chạy dọc theo quốc lộ 80 thêm mấy chục cây số, chúng tôi dừng lại ở bến đò Kênh 5. Chiếc xe bảy chỗ bỗng như quá khổ khi khó nhọc nép mình cho vừa khít con đò èo uột. Phải thêm một cái đẩy chân của mấy người đứng trên bờ nữa, nó mới ỳ ạch chuyển mình đưa chúng tôi qua sông. Cũng đã đi qua phà nhiều bận, nhưng chắc đây là lần đầu tiên tôi có cảm giác hồi hộp vượt sông, dù từ bờ này đến bờ bên kia cách nhau bằng một cái búng người và vài sải bơi. Bấy nhiêu chỉ mới là chặng đầu tiên của lối dẫn vào Tân Hóa, leo dốc ra khỏi con đò chúng tôi tiếp tục đi sâu vào trong. Ngoài lộ, đường nhỏ cũng không thể sánh được với khu vực này, anh tài xế của Tòa soạn nổi tiếng “tay lái lụa” bữa nay phải tập trung cao độ khi con đường chỉ vừa ôm trọn bốn bánh xe, lơ vô lăng một chút là có thể tắm sông bất đắc dĩ cả người lẫn “ngựa”. Băng qua thêm độ chục cái cầu, vòng vèo hết khúc cua này đến ngõ quẹo khác, cuối cùng chúng tôi cũng đến được nơi cần đến: nhà thờ Tân Hóa hiện ra trước mặt với khoảng sân phía trước khá rộng nhưng nhiều nắng.
|
Thánh đường giáo xứ Tân Hóa |
Tuy đã hỏi thăm dân địa phương và nghe họ kể nhiều về “ông cố Quang”, nhưng thú thật tôi đã không khỏi ngỡ ngàng lúc nhìn thấy cha trong bộ áo quần giản dị, nụ cười thoải mái, không ngăn cách, chẳng sáo từ, gần gũi và dễ mến. Chúng tôi ngồi ngay ngoài hiên vừa nghe câu hát“Hậu Giang ơi...”, vừa nghe cha nói về “mối tình” thứ ba – Tân Hóa trong đời linh mục của mình, (trước đó là chín năm phục vụ Giáo xứ Bò Ót và bảy năm ở Giáo xứ Thánh Tâm).
Cha Quang bảo nhà thờ chúng tôi đang ngồi đây là nhà thờ cuối cùng của huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang, thuộc xã Mong Thọ A, ấp Thạnh Lợi. Vùng này dân khoảng hơn 21.000 người, trong đó một ít gốc Bắc di cư năm 1954, còn lại chủ yếu từ các tỉnh Vĩnh Long, Long An, Cần Thơ và Rạch Giá về đây lập nghiệp, gồm cả người Kinh, người Hoa và người Khơme. Dân cư đông nhưng Công giáo chỉ chừng 300 đến 400 người. Nguyên nhân do thời xưa người ta theo “đạo gạo”, “đạo phân”, nghĩa là cứ cho gạo cứu đói hay phân bón mần ruộng là họ đi nhà thờ. Khi không còn quyền lợi, họ xa Chúa. Số còn lại hiện nay là những người thực sự có niềm tin vững chãi. Cha cũng nói nhiều về cuộc sống nghèo khó, thiếu thốn của dân miệt này. Hầu hết là làm nông, nhưng ruộng lại ít, số nhà không có cục đất chọi chim chiếm đa số, nên rất đông trong số họ phải đi làm thuê, bán lưng và trả mồ hôi cho đất để đổi lấy cuộc sống ngày hai bữa chật vật. Đường sá thì cách trở, nên hoặc là bỏ xứ đi làm ăn xa, hoặc chỉ quanh quẩn cày thuê cuốc mướn cho người khá trong vùng, công nhật làm 8 tiếng/ngày chừng 100 ngàn đồng, nhưng việc bữa đực bữa cái, nồi cơm vì thế cũng lúc đầy lúc lưng.
|
Hệ thống nước sạch do cha làm |
Người già trong vùng lý giải, một trong những lý do khiến vùng Mong Thọ cứ mãi khó khăn là vì thế đất nằm lọt thỏm giữa các vùng lân cận, lại thấp và nhiễm phèn nặng. Ruộng Mong Thọ không liền đồng và trù phú như ở huyện Tân Hiệp bên cạnh; giao thương, buôn bán thì không thể sánh với những khu vực phát triển từ lâu đời như Rạch Giá, Kiên Lương, Hòn Đất gần đó… Ngay cả trong phạm vi huyện Châu Thành, Mong Thọ cũng được coi là vùng sâu vùng xa so với cảng cá Tắc Cậu dù chỉ cách chưa đầy mười cây số đường chim bay. Công bằng mà nói, không kể hồi chiến tranh rày đây mai đó, sau hòa bình, dù khó nhọc nhưng dân ở đây cũng từng túc túc tắc tắc tích trữ để dành được nhưng dư dả, đỡ lo chưa bao lâu thì trận lụt lịch sử năm 1978 đã nhấn chìm tất cả. Họ phải làm lại từ con số không. Họa vô đơn chí, tưởng sóng gió thiên tai đã qua để an cư lạc nghiệp thì con lũ một lần nữa trở lại - năm 2000 - với mức độ khủng khiếp hơn, cuốn trôi sạch sẽ. Cuộc sống cứ vừa ổn định lại mất hết vì lũ. Cái nghèo như bám riết người dân hiền lành Mong Thọ.
…và tấm lòng của vị mục tử
Cha Quang bảo hồi ngài mới về đường vào nhà thờ gồ ghề, âm u lắm, không một ngọn đèn ban đêm, y hệt đường đi vào rừng U Minh bên Miệt Thứ vậy. Nghĩ đến cảnh trẻ con đi học, thanh niên đi làm, hay người dân có việc qua lại buổi tối trong tù mù, với bao nhiêu tai họa rình rập, nhẹ thì va chạm nhau, nặng có thể lọt sông lọt hố…, cha không khỏi rùng mình và cảm thương dân khó. Vậy là chỉ trong vài tuần, cha cùng vài anh em trong vùng quyết định leo lên cột bắt bóng đèn điện, dù giữa trưa nắng nóng hay trong chiều muộn, cứ rảnh là rủ nhau làm. Dân thấy thương khi nhìn ông cha “đu dây điện” nên cũng đến phụ giúp, rồi nhà thì đem ra thùng trà đá, hộ thì tặng mấy nải chuối. Cứ như vậy, cha con vừa làm vừa…thở vì không đủ tiền thuê thợ, khi làm được một cây số thì các xã kế bên thấy hay nên làm theo. Giờ thì cả đoạn đường dài sáng trưng ban đêm, dân tha hồ đi mà không còn lo lắng gì.
|
Cây cầu được xây thêm trụ chống đỡ |
Nói đến đường sá ở đây, lúc được một vị trong Ban hành giáo đưa đi lòng vòng khu vực xung quanh nhà thờ tìm hiểu đời sống bà con trong vùng, tôi đã buột miệng hỏi sao miền này nhiều cầu quá, và cái nào cũng nhỏ hẹp, vị này bảo cầu mà xe hơi đi được là đã đỡ lắm rồi, ở đây còn có những cầu nhỏ, không có lan can ở hai bên, người ta đi qua đụng nhau té sông hoài, rất nguy hiểm. Rồi ông khoe cha Quang đã sửa, cơi nới, xây thêm lan can được bốn cây cầu liên ấp. Có những cái thấp, ghe chen nhau đi ngang qua tông vào làm chân trụ gãy, cha cũng cho dựng cột bêtông để chống đỡ. Ông cho biết, trước đây cầu đường xập xệ, tối tăm, nhiều nhà đã ngại không dám cho con đi học ở trường hay đến nhà thờ sinh hoạt vì sợ tai nạn có thể xảy ra. Giờ đã thông thoáng phần nào, người dân an tâm nên chuyện học, chuyện nhà thờ nhà thánh được quan tâm hơn.
Mong Thọ, như đã nói, là vùng trũng, lại là cái rốn hứng nước từ U Minh đổ vào nên bị nhiễm phèn. Dầu vậy, chỉ nhà khá mới thuê khoan giếng lấy nước sinh hoạt, còn phần lớn là múc nước sông lên, cho vào lu, đánh phèn lắng rồi lấy ra sử dụng. Trẻ con hay ngay cả người lớn bị bệnh đường ruột, tiêu hóa là chuyện thường ngày. Chạnh lòng với cảnh này, cha Quang cho làm hệ thống nước sạch dành cho tất cả mọi người không phân biệt lương hay Công giáo. Trung bình mỗi gia đình hằng ngày được cung cấp 20 lít để dùng cho việc ăn uống. Nguồn kinh phí cha đi xin bạn bè, thân quyến, mạnh thường quân trong mối quan hệ sẵn có của mình, vì dân ở đây quá nghèo.“Được cái bạn bè hiểu và thương nên đã chia sẻ, họ biết mình có đồng nào là đổ vào mấy cái phúc lợi cho dân, túi luôn rỗng nên đứa cho cái thùng, đứa giúp khoan giếng không lấy công”, cha nói tỉnh queo, nhẹ tênh.
|
Cây cầu được xây thêm lan can cho dân an toàn qua sông |
Sống ở một vùng nằm sâu trong huyện, dân cư thì nghèo khổ nhưng người đối diện luôn nhận ra sự lạc quan, pha chút hóm hỉnh trong cách nói chuyện của vị mục tử chân chất này. Tuy nhiên, khi hỏi thăm cha về thiếu nhi, về việc học hành của con em trong xứ, tôi thấy ngài đầy vẻ ưu tư, lo lắng và trăn trở. Cha cho biết hiện đang cấp học bổng cho 42 em, sinh viên thì nhận 1 triệu 350 ngàn đồng/người/quý, các cấp học dưới thì 1 triệu đồng. Mỗi đầu năm học đều phải phát tập sách cho tụi nhỏ, đứa lớp lớn còn được tặng cả xe đạp vì trường cách nhà thờ cả 10 cây số. Năm vừa rồi nhà thờ giúp được 4.000 cuốn tập và 10 chiếc xe đạp cho những đứa trẻ đi tìm con chữ. Sợ lũ học trò nhịn đói đi học, cha phụ cấp thêm cho tiền ăn sáng hằng ngày…
Ông Vũ Quang Triều, Phụ trách mảng khuyến học của giáo xứ nhận xét :“Hiếm thấy có linh mục nào lo cho trẻ con từng li từng tí như cha Quang. Đi học, xe đạp cha cũng cho, học bổng cũng có, tập vở đầy đủ. Tuy nhiên, có một điều đáng buồn là không phải cha mẹ nào cũng biến sự chăm sóc đó thành lợi thế, thành bàn đạp để trẻ phóng vào tương lai một cách thênh thang, có thể ngẩng mặt với đời, và nhất là không còn lam lũ như mình. Có đứa học đến lớp 11 rồi nhưng gia đình bắt nghỉ để đi làm phụ giúp miếng ăn. Coi như cây đến buồng rồi mà còn đốn bỏ. Tụi tui vừa thấy tiếc cho họ, vừa nghĩ thương cha công khó…”.Thiếu nhi có thể từ bỏ lúc này, cha mẹ có thể lơ là ở thời điểm hiện tại, nhưng còn ông cố Quang thì không bao giờ hết kiên nhẫn và tình thương. Cái tâm của vị linh mục luôn thao thức làm thế nào để các em hiểu được tầm quan trọng của việc học tập, mới đây cha còn kéo cả mạng internet, lập phòng máy tính, mục đích cho các em tiếp cận với thông tin để thấy thế giới rất rộng lớn và tương lai sẽ rộng mở khi mang lấy cái chữ bên mình.
Không chỉ chung tay với dân lo chuyện đường sá, cầu cống; không những hà hơi tiếp sức cho từng đứa trẻ có chí học hành nhưng thiếu điều kiện…; cha còn tìm cách, tìm dịp tạo những sân chơi cho mọi người, đặc biệt là giới trẻ. Hôm chúng tôi ghé thăm, rảo qua nhà thờ thăm thú, mấy bà mấy chị đang quét nhà thờ, biết tôi là nhà báo từ Sài Gòn về, đã rỉ tai rủ rê Noel về đây chơi.“Dzui lắm !”, một chị “quảng cáo” gọn ơ. Họ kể vừa rồi kết thúc tháng Năm có 22 em dâng hoa, nhưng một nửa là ngoài Công giáo. Dịp Trung Thu bọn trẻ ca hát nhảy múa vui vẻ, hồn nhiên trên sân khấu cha dựng sẵn. Rồi khoe đến Giáng Sinh, Tết Nguyên Đán, cả chính quyền, anh em Phật giáo, Hòa Hảo cùng đến chung vui, văn nghệ, liên hoan chung với bà con giáo dân. Sân nhà thờ như ngày hội của tất cả mọi người, không phân biệt tôn giáo, không phân chia thứ bậc, chỉ có tình thương và sự liên đới hiện diện, kết nối mọi người.
Rời Tân Hóa khi nắng đã đổ bóng chiều. Đường ra vẫn ngoằn ngoèo và mấp mô, nước dưới sông vẫn đặc quánh màu phèn pha màu lá mục. Quay nhìn lại ngôi nhà thờ lần nữa trước khi xe qua ngã rẽ, tôi biết, ở đâu đó thấp thoáng dưới tháp chuông xa, có một vị linh mục vẫn ngày đêm thao thức với những cái khúc khuỷu, với những hố sâu chưa lấp đầy, với những dòng chảy chưa trong nơi miền đất này, và cả trong những sinh hoạt thường nhật của bà con Mong Thọ. Đó là nhịp đập, là hơi thở của trái tim một vị mục tử giàu nhiệt huyết, luôn cháy hết mình với dân nghèo.
Duy Hòa
Bình luận