1.
Trích trong bài thơ “Nam quốc sơn hà”:
如 何 逆 虜 來 侵 犯
汝 等 行 看 取 敗 虚
Hai hàng chữ Hán này, hẳn nhiên, nếu không học chữ Hán thì bó tay. Nhưng, ngay cả khi nghe âm Hán - Việt của hai hàng chữ Hán đó như vầy: “Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm / Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư” [1], ắt hẳn rất nhiều người trong chúng ta nghe xong cũng khỏi hiểu, không biết nghĩa gì ráo trọi.
Cũng vậy, vào thuở xưa, lúc nước Việt chúng ta còn dùng Hán tự (trước khi có chữ Quốc ngữ), nghe đọc âm Hán - Việt vừa dẫn thì cũng chỉ có thầy đồ và giới quan quyền có học hành mới hiểu mà thôi. Còn đa số người dân nghe xong cũng in hệt như vịt nghe sấm, không hiểu gì hết nếu không được thầy đồ giảng giải sang... âm thuần Việt (Nam âm) mang nghĩa gì.
Mời bạn đọc xem tiếp hai câu trong “Bình Ngô đại cáo”:
仁義之舉,要在安民
弔伐之師莫先去暴。
Phần lớn người dân Việt thuở xưa nhìn vào cũng chẳng hiểu (người biết chữ Hán chỉ thuộc giới quan quyền, nho sĩ, chiếm một tỉ lệ rất nhỏ trong xã hội bấy giờ). Phải nhờ thầy đồ đọc: “Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân / Điếu phạt chi sư mạc tiên khử bạo”.
Thầy đồ đọc theo âm Hán - Việt, chớ nào phải đọc “quốc âm” (Nôm), nên nghe xong, giới bình dân cũng khó mà hiểu cho tường tận. Phải đợi thầy dịch sang... quốc âm (Nam âm), mới hiểu, đại khái là: “Cốt lõi của mọi điều nhân nghĩa nằm ở việc lo cho dân an bình, và quân lính trước hết phải lo chống lại bạo tàn”.
![]() |
2.
Danh nhân Nguyễn Trường Tộ (1830-1871), trong bản điều trần về Quốc âm nước Việt dâng lên vua Tự Đức, đã gọi đây là một hiện tượng kỳ quái: vua quan nước Việt sử dụng “ngoại ngữ” ngay trên đất Việt, trong suốt nhiều thế kỷ. Xin trích: “Tại sao chúng ta đọc thực phạn 食 飯 mà không nói là ăn cơm? Không lẽ ăn cơm thì không cao quý bằng thực phạn sao?”.
Gọi thực phạn, nói rộng ra là dùng các âm Hán - Việt, đa số người dân trong nước không hiểu, phải có người giảng giải sang quốc âm (Nam âm) thì người dân mới hiểu. Âm Hán - Việt chẳng khác nào một ngoại ngữ đối với phần lớn người dân Việt.
3.
Mà “ngoại ngữ” này (âm Hán - Việt) cũng thiệt lạ đời lắm!
Nhắc lại hai câu thơ dẫn trên: “Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm / Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”. Đọc lên, người Trung Hoa nghe cũng khỏi hiểu luôn, vì đây đâu phải đọc tiếng Hoa, mà là âm Hán - Việt (dĩ nhiên người Hoa sẽ hiểu nghĩa nếu đưa họ nhìn mặt chữ, viết bằng Hán tự, của hai câu thơ này).
Vậy đó. Âm Hán - Việt chẳng phải là tiếng Hoa được hiểu như một ngoại ngữ, mà vẫn cứ là… một “ngoại ngữ” đối với phần lớn người dân Việt trong suốt nhiều thế kỷ trước kia. Vì sao phần lớn giới quan quyền, sĩ phu nước Việt xưa kia sử dụng “ngoại ngữ Hán - Việt” mà không đọc theo Nam âm (quốc âm)? Phần Phụ lục tiếp theo đây, đề cập bộ chữ biểu âm Hangul của người Hàn, sẽ cho chúng ta thấy một kinh nghiệm đối chiếu đáng ngẫm nghĩ.
Nguyễn Chương
Phụ lục: TẠO RA BỘ CHỮ BIỂU ÂM HANGUL, MỘT KỲ CÔNG!
Vua Lee Se-jong (Lý Thế Tông, 1418-1450) đi vào lịch sử muôn đời của người Hàn bởi thành tựu lớn nhứt là việc sáng tạo ra bộ chữ Hangul - được ban hành chính thức vào năm 1446. Người Hàn trong rất nhiều thế kỷ cũng chỉ xài mỗi Hán tự, đọc theo âm Hán - Hàn; tình cảnh cũng y chang người Việt xài chữ Hán mà đọc theo âm Hán - Việt. Thử đọc chiếu chỉ của Thế Tông xứ Hàn, rồi sẽ thấy rất gần gũi với hoàn cảnh của quốc âm chúng ta (Nam âm) dường bao : “Tiếng nói - Quốc âm - của ngôn ngữ chúng ta khác với tiếng nói của người Trung Hoa và không mấy dễ dàng được viết ra theo Hán tự. Do đó, mặc dù nhiều người trong số các thần dân ít học của chúng ta mong muốn diễn tả ý nghĩ của mình, nhưng trong nhiều trường hợp vẫn không diễn tả được. Nghĩ tới những người dân ấy, người dân của Trẫm, với lòng cảm thông, Trẫm đã sáng chế ra cách ghi của 28 chữ cái, chỉ mong sao mọi người đều có thể học được một cách dễ dàng và sử dụng cho lợi ích của cuộc sống thường ngày của họ”. Bộ chữ Hangul là văn - tự - biểu - âmkháchoàn toàn với chữ Hán thuộc văn - tự - biểu - ý (nhiều người chưa hiểu nên tưởng Hangul cũng tương tợ chữ Hán, không phải vậy, khác nhau một trời một vực). Văn tự Hangul gồm 28 chữ cái (mẫu tự, letter) biểu thị âm thanh, ghép các chữ cái (mẫu tự) mà tạo thành chữ (word). Thời đó, không ít sĩ phu trí thức kịch liệt phản đối bộ chữ Hangul, họ cho rằng chỉ có Hán tự (“Hanja”, cách gọi của người Hàn) mới đáng để học, vì là “chữ thánh hiền”; mặt khác, họ e ngại địa vị xã hội - chánh trị của họ sẽ bị bộ chữ Hangul đe dọa vì lối chữ bình dân này dễ phổ cập, tước mất “độc quyền tinh hoa” của họ. Thành thử sau triều vua Thế Tông (giữa thế kỷ 15), một số vị vua khác cũng bị áp lực mà gạt bỏ không dùng bộ chữ Hangul. Nhưng nỗ lực của những trí thức ưu tư cho quốc âm (thuần Hàn, không phải Hán - Hàn “Hanja”) cuối cùng đã thắng lợi: bộ chữ Hangul vào cuối thế kỷ 16 trở nên thịnh đạt! Tạo ra đượcbộ chữ để ghi âm (biểu âm)là công trạngvĩ đại, rất vĩ đại. Bởi vì có hàng ngàn, hàng chục ngàn danh tướng, nhưng trí tuệ để tạo ra bộ chữ viết thì rất hiếm. Ngay cả hiện nay vẫn còn nhiều quốc gia, dân tộc phải mượn y chang văn tự của quốc gia khác mà xài. Trong khi đó, ngày xưa sinh hoạt học thuật, chánh trị ở nước Việt thì cứ mãi đắm mình vào “chữ thánh hiền” Hán tự (chỉ đọc âm Hán - Việt mà thôi) cho đến đầu thế kỷ 20, chúng ta không đủ can đảm đế giã từ vị thế “độc quyền tinh hoa” mà Hán tự đem lại cho giới quan quyền, giới sĩ phu phục vụ triều đình. |
_____________________________________________________
1 Có nhiều bản dịch khác nhau, đây là bản dịch của Trần Trọng Kim về hai câu thơ, từ âm Hán - Việt sang quốc âm:“Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm / Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời”.
Bình luận