* “Chiên” (con chiên), xin chú ý, là tiếng thuần Việt.
1.
Trong “Đại Nam quấc âm tự vị” của Huình Tịnh Của, “Chiên” được viết bằng chữ Nôm ? (ký tự này không có trong chữ Hán, đây thuộc về Nam âm thuần Việt), nghĩa là “loại thú giống dê mà rất hiền lành”.
“Lamb”, chuyển ngữ qua tiếng Việt, là “chiên”. Tỉ như, “The lamb of God”, được chuyển ngữ là “Chiên Thiên Chúa” (Chiên của Thiên Chúa). Như trong sách Phúc Âm Gioan 1:29, theo đó thánh Gioan Tẩy giả (Gioan Baotixita) thấy Chúa Giêsu tiến về phía mình, liền nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa (“the Lamb of GOD”), đây Đấng xóa bỏ tội trần gian”.
Sẵn nói cho tỏ, khỏi bị lẫn lộn, người Hán chuyển ngữ “lamb” bằng Hán tự: 羔羊 (họ đọc /kāo yáng/), âm Hán - Việt là “cao dương”.
Tức “lamb” = “chiên” (Việt ngữ, Nam âm) = kāo yáng (Hán ngữ, chuyển âm Hán - Việt là “cao dương”).
![]() |
2.
Có những người “quên béng” rằng tiếng Việt ngày trước (khi chưa dùng chữ Quốc ngữ theo ký tự La Tinh) đâu chỉ viết bằng chữ Hán, mà còn được viết bằng chữ Nôm (ghi lại Nam âm, thuần Việt, ghi lại những chữ không nói bằng âm Hán - Việt của Hán tự).
Họ chỉ nhắm vào mỗi từ điển Hán - Việt để tra cứu toàn bộ tiếng Việt chăng? Gặp “mẹ con”, thì trong chữ Hán đâu có từ vựng nào đọc “mẹ con”, mà chỉ có âm Hán - Việt đồng nghĩa là “mẫu tử”; tức phải hiểu có tra cứu chữ Nôm thì mới tìm được ký tự đọc rõ rành “mẹ con” như vây.
Nhưng, nhiều người không chịu - trước hết, trên hết - là tra cứu chữ Nôm (nếu thực tâm có ý thức tìm hiểu, yêu mến, quý trọng tiếng Việt). Chẳng hạn, có người chỉ lục lọi trong từ điển chữ Hán xem có ký tự nào đọc theo âm Hán - Việt là “chiên” hay không. Không may, trong chữ Hán có ký tự 羶, người Hán đọc /shān/, âm Hán - Việt là “chiên”, mang nghĩa: “mùi tanh hôi của dê, cừu”.
3.
Tạm dừng một chút.
Ắt quý bạn còn nhớ, có những người cho rằng người Việt Nam dùng chữ sai khi hiểu “khuất tất” nghĩa là “mờ ám”, “che lấp”; họ dẫn ra hai chữ Hán 屈膝 đọc là “khuất tất” mang nghĩa “quỳ gối”. Đó là do họ quên mất tiếng Việt, chỉ chú ý vào từ điển chữ Hán (đọc âm Hán - Việt), mà không biết cần phải tra cứu chữ Nôm (ghi Nam âm, thuần Việt).
“Khuất tất” mang nghĩa “quỳ gối”, đó là chữ Hán 屈膝 (âm Hán - Việt). Còn “KHUẤT TẤT” mang nghĩa “mờ ám”, đó là do chúng ta đọc theo Nam âm, thuần Việt, ghi bằng CHỮ NÔM: 闃畢. Ở đây, đồng âm nhưng khác nghĩa.
Éo le thay, vẫn không ít người thượng tôn Hán tự (chỉ ghi âm Hán - Việt, loại bỏ Nam âm) mà dám “giảng giải… tiếng Việt” cho mọi người.
Thấy gì? Chỉ vì họ bạc bẽo với Nam âm, mà dẫn đến suy nghĩ, diễn giải lệch lạc!
![]() |
4.
Trở lại với “chiên”.
4a) Ở đây, đồng âm nhưng có dị biệt về nghĩa. Phải biết phân định chữ Nôm, chữ Hán.
Người Việt gọi “CHIÊN” (Nam âm, chữ Nôm: ?) KHÁC NGHĨA với người Hán gọi /shān/ (“chiên” theo âm Hán - Việt, chữ Hán: 羶).
Đem lối nói của người Hán /shān/ (“chiên”) chụp lên cách nói “CHIÊN” thuần Việt, có khác nào “râu ông cắm cằm bà”!
4b) Rồi, thỉnh thoảng vẫn thấy có những người dùng cách giải nghĩa “chiên” thuộc âm Hán - Việt (nghĩa là “mùi hôi tanh”) trong CHỮ HÁN để … úp chụp vào nghĩa “chiên” trong Kitô giáo, quàng xiên giải thích cho “đàn chiên, con chiên” viết bằng TIẾNG VIỆT (trong Kitô giáo).
Đây là một sự ngờ nghệch quá sức. Chữ Hán 羶 (“shān”, Hán - Việt “chiên”), chuyển ngữ tiếng Anh là “smell of mutton”, không phải “lamb”.
Để chuyển ngữ cho “lamb”, chữ Hán tương ứng phải là 羔羊 (âm Hán - Việt: “cao dương”).
Chỉ vì bội bạc với Nam âm của tiếng Việt (“CHIÊN”, thuộc Nam âm), thượng tôn Hán tự, nên dẫn đến lối diễn giải hết sức tồi tệ, thiển cận.
5.
Thay lời kết.
“Lamb of God”: “Lamb” mang nghĩa là “CHIÊN”. Ngoài ra, “lamb” còn mang nghĩa “chất phác, thực thà” (đồng nghĩa với “innocence”, “ingenuity”).
“Lamb” (“CHIÊN”), như vậy, mang lấy vẻ đẹp và giá trị của lòng khiêm tốn.
NGUYỄN CHƯƠNG
Bình luận