Mấy ngày Xuân vừa trôi qua, cháu tôi ở Sài Gòn gọi điện thoại hỏi han, rồi phân bua do cả nhà đi du lịch nước ngoài nên Tết không về thăm dì Út được. Trò chuyện một hồi, nó hỏi: “Năm nay nhà dì có nồi xà bần không?”.
Không ngờ đứa cháu trẻ tuổi và hiện đại, bao năm sống ở thành phố lớn vẫn bồi hồi không quên món “đặc sản” miền Tây này! Chẳng biết ai đặt tên “xà bần” cho cái món “hổ lốn” vốn chỉ có sau những ngày lễ, Tết thừa mứa thức ăn. Nhiều người ví von rằng, có lẽ nó cũng tương tự như các loại phế liệu dồn lại từ quá trình xây dựng như các mảnh gạch đá, xi măng sắt thép vụn, nên mới có tên là “xà bần”.
Ở quê, vào ngày giỗ, Tết, con cái cháu chắt quy tụ về đông, phải chuẩn bị nhiều thức ăn. Với tâm lý “thà dư còn hơn thiếu”, nên sau những buổi tiệc tùng thường các món ăn còn lại cũng kha khá. Không muốn lãng phí, các bà nội trợ liền phân loại ra, món nào phải bỏ đi thì cho vào thùng rác, cái nào tận dụng lại được thì cho vào chung một cái xoong to, đặt lên bếp nấu cho sôi sùng sục, rồi nêm nếm gia vị cho vừa miệng. Trong nồi “xà bần” thường có thịt heo, thịt gà, thịt vịt, giò chả…, thêm các loại rau như đậu cô-ve, khổ qua, và nhất định không thể thiếu dưa chua. Cọng dưa cải chua chua, thấm vị ngọt béo béo của thịt cá, cộng với mùi thơm của hành tiêu tỏi ớt…, bỗng chốc trở thành thứ quyến rũ vị giác vô cùng!
Hồi nhỏ, tôi được má chỉ cách làm nồi xà bần hấp dẫn, là ngoài nêm nếm cho hợp khẩu vị chung, còn thêm vào mấy lát chuối xanh, được má giải thích là để tránh bị đau bụng.
Sau những bữa ăn thịt cá ê hề ngày hôm trước, hôm sau ai cũng nhắc tô xà bần để ăn với bún. Sau khi “nước nhứt” dần cạn, nồi xà bần sẽ được bổ sung thêm thịt ba rọi, măng, dưa cải mới để ăn tiếp. Có điều là, khi đến “nước hai”, “nước ba” rồi thì xà bần không còn hương vị đặc trưng của nó nữa…
Cũng có các khuyến cáo không nên dùng thức ăn thừa. Thế nhưng, với những gia đình nghèo ở vùng thôn quê ngày xưa, thì chỉ dịp giỗ, Tết mới có những món ngon, nên làm sao bỏ đi những thức ăn quý giá đó được, dù là đồ ăn thừa. Là chưa kể, trước đây, ở quê cũng không có tủ lạnh để lưu trữ thức ăn dư, nên bà con mới chế ra món xà bần. Mỗi lần ăn lại đặt lên bếp lửa cho thật sôi và cho đó là cách an toàn!
Lại nói về món “xà bần”. Đó là chỉ những người trong gia đình mới “được” thưởng thức, chứ hiếm ai đem ra đãi khách. Và dễ gì bắt món ăn “tiết kiệm” này trong đâu đó các thực đơn quán xá, nhà hàng…
Thiên Lý
Bình luận