Người Việt rất hiếu học và xã hội luôn coi giáo dục là quốc sách. Điều này có nghĩa chiến lược phát triển tương lai quốc gia không thể bỏ qua đầu tư cho giáo dục, đặc biệt là khoa học công nghệ. Nhìn sang Nhật Bản, Hàn Quốc những thập niên 50-70 của thế kỷ 20, từ những nước nghèo đã vươn lên thành cường quốc kinh tế và đứng đầu trên thế giới ở không ít ngành nghề, sản phẩm và công nghệ. Họ đã chọn đầu tư cho khoa học, công nghệ nên kết quả là vậy.
Việt Nam đã thực sự đầu tư trọng điểm cho khoa học công nghệ? Đã thực sự đãi ngộ trọng dụng nhân tài, trong đó có đội ngũ làm khoa học? Nếu làm một cuộc khảo sát, hoặc thăm dò ngắn với tất cả những người làm khoa học thuộc hệ thống công lập, gần như tất cả sẽ trả lời rằng còn nhiều bất cập về cơ chế và đãi ngộ đối với họ.
![]() |
Từ nhiều năm nay, cơ chế làm khoa học vẫn mang tính kế hoạch, nặng “xin - cho”. Có rất nhiều các thủ tục hành chính rườm rà từ việc chi tiêu, quyết toán cho đến xét duyệt, nghiệm thu, ứng dụng các sản phẩm khoa học công nghệ. Tất cả đều không giúp người nghiên cứu toàn tâm với công việc.
Về đãi ngộ, có thể nói là không tương xứng. Mức lương hiện nay với một tiến sĩ ở đơn vị khoa học công lập chỉ dao động từ 7-8 triệu đồng. Số tiền này thực tế không đủ trang trải cho đời sống cá nhân, chứ chưa nói cho vợ con, gia đình và tái đầu tư cho sức khỏe, tài liệu.
Bởi vậy mới thấy muốn cho khoa học nước nhà thực sự định hình và có tiền đồ, Nhà nước cần phải thay đổi tư duy, có cơ chế thoáng và trọng dụng đãi ngộ với những người làm khoa học, công nghệ.
Gần đây, Thủ tướng yêu cầu Bộ chủ quản và các đơn vị liên quan phải rà soát để có một cơ chế tốt hơn với những người làm khoa học. Sở Khoa học và Công nghệ TP. HCM đề xuất mức lương đặc thù cho đội ngũ khoa học, công nghệ tại một số đơn vị trọng điểm có thể lên tới 120 triệu đồng. Hy vọng sẽ có một tương lai mở hơn với nền khoa học công nghệ nước nhà. Việc trước mắt có lẽ các nhà khoa học vẫn phải yêu nghề, giữ nghề và mong chờ chính sách đãi ngộ sớm thành hiện thực.
Ngô Quốc Đông
Bình luận