Công giáo Việt Nam và văn hóa dân tộc (tiếp theo kỳ trước)

1.3 Nhìn lại “bên giáo”

Từ sau Công đồng Vatican II (1963-1965), Giáo hội khuyến khích đối thoại và hội nhập văn hóa để nói về Thiên Chúa bằng ngôn ngữ văn hóa của tất cả các dân tộc. Bối cảnh mới đã mở ra cho cộng đồng Công giáo Việt Nam cơ hội hòa nhập với xã hội địa phương, hóa giải những mâu thuẫn tồn tại hàng trăm năm và làm phong phú di sản văn hóa của dân tộc nhiều hơn nữa.

Ngoài việc ghi nhận những thành quả hội nhập mà chúng ta có quyền tự hào và phát huy, cũng cần nhìn lại tinh thần hội nhập của nhiều thành phần trong Giáo hội. Bên cạnh các hoạt động liên tôn, các sinh hoạt văn hóa thể hiện sự tương thân tương ái, vẫn còn đây đó, tuy đã rất ít, những lời nói và hành động công kích sự khác biệt tôn giáo, thể hiện kiểu tư duy thượng đẳng cổ hủ. Những hành vi này không chỉ đi ngược lại với tinh thần đối thoại của Công đồng Vatican II, làm tổn hại đến những nỗ lực xây dựng một cộng đồng văn hóa đoàn kết, nghiêm trọng hơn, còn tiêm nhiễm và nuôi dưỡng một nhận thức méo về tôn giáo trong lòng thế hệ trẻ.

Để tránh sự chia rẽ lương - giáo sâu sắc một lần nữa, các bài học giáo nên phần nói về đức bác ái sự công bình mà mọi cộng đồng tôn giáo đáng được hưởng, về việc người ngoại đạo cũng là con Chúa, về sự đa dạng và tôn trọng khác biệt trong một xã hội văn minh, hiện đại. Sở dĩ chúng tôi có đề nghị này vì nhớ đến nhiều chục năm trước, ở một số xứ đạo, trẻ con tỏ ra xa lánh người ngoại giáo và có những nhận định không tốt về sinh hoạt tôn giáo của họ.

 

Nha tho Phat Diem.jpg (245 KB)
 Nhà thờ Phát Diệm

2. Văn hóa làng xã nơi giáo xứ, họ đạo

Đời sống hiện đại và quá trình đô thị hóa đã làm phai mờ những liên kết truyền thống, khiến nhiều làng xã từng gắn bó qua hàng thế kỷ phải đối mặt với viễn cảnh suy yếu và tan rã về mặt cấu trúc, vẫn tồn tại trên giấy tờ. Trong bối cảnh đó, các giáo xứ, họ đạo lại có thể lưu giữa những dấu tích của văn hóa làng xã truyền thống Việt Nam, nhất là trong cấu trúc tự quản và đời sống cộng đồng. Vậy, những đặc điểm nào của văn hóa làng xã đã được bảo lưu nơi xứ đạo, vì đâu chúng có thể tồn tại một cách bền bỉ đến như thế và chúng ta phải chọn lọc những văn hóa nào để tiếp tục phát huy?

 2.1 Nhà thờ - đình làng Công giáo và nhiều hơn thế

Đời sống nông nghiệp với nhu cầu nhân lực cao đã tạo nên sự gắn bó của cộng đồng người Việt. Dưới tác động của cấu trúc quản lý chặt chẽ, sự gắn kết này tạo nên hai đặc trưng cơ bản nhất của làng xã truyền thống là: tính cộng đồng và tính tự quản. Ngày nay, tuy lối sống nông nghiệp đã mai một, loại hình kinh tế đã thay đổi, dấu tích của văn hóa làng xã vẫn còn được bảo lưu nơi giáo xứ, họ đạo, được duy trì ngay cả trong môi trường đô thị với hai đặc tính trên.

Tính cộng đồng của làng xã truyền thống được thể hiện rõ ràng qua các sinh hoạt chung, quy tụ toàn dân hoặc có tác động đến mọi thôn (xóm, ấp). Trung tâm của các sinh hoạt ấy là đình làng - biểu tượng của đời sống cộng đồng. Về mặt hành chính, đình là nơi diễn ra các cuộc họp của quan viên làng xã, xưa là nơi đặt bàn thu thuế, nơi xét xử tội nhân, nơi thông báo những vấn đề quan trọng. Về mặt văn hóa, đình là nơi diễn ra hội làng, nơi toàn dân ăn cỗ, nơi đoàn hát biểu diễnTừ thế kỷ XVII, đình còn đảm nhận thêm vai trò tâm linh khi trở thành nơi thờ thành hoàng và tổ chức lễ tế trọng thể. Chính nhờ những vai trò kể trên đình thường nằm trang trọng giữa làng, trên trục đường chính hoặc dẫu có phải đặt ngoài rìa thì cũng tọa lạc trên một mảnh đất đẹp, tựa núi nhìn sông. Đồng thời, đình thường được nhân dân góp tiền xây dựng, tu sửa, gìn giữ, công trình bề thế nhất và niềm tự hào chung của làng xã.

Trong các giáo xứ, họ đạo ngày nay, tính cộng đồng vẫn còn được “nuôi sống” bằng những sinh hoạt chung dưới mái nhà thờ. Nhưng nhà thờ không chỉ đóng vai trò như một ngôi đình làng Công giáo mà còn hơn thế nữa. Hữu hình và dễ nhận thấy trong những tương đồng giữa nhà thờ với đình làng là quá trình xây dựng, vị trí và sự uy nghi của công trình kiến trúc. Giống như đình làng, nhà thờ được xây dựng bởi sự đóng góp về cả hiện kim lẫn hiện vật của người Công giáo địa phương. Nhà thờ cũng được đặt một cách trang trọng nơi trung tâm giáo xứ, họ đạo hoặc trên trục đường chính. Suốt một thời gian dài, nhà thờ cũng là công trình cao nhất, bề thế nhất, được đầu tư trang trí nhiều nhất, niềm tự hào củalàng Công giáo”. Chỉ có khác là nếu như đình do hội đồng kỳ mục gồm những người do dân bầu ra quản lý và quyết định xây dựng, sửa sang, phá bỏ…, thì nhà thờ chịu sự chi phối của linh mục chánh xứ, người được bề trên giao nhiệm vụ coi sóc xứ đạo. Chính sự khác biệt này đã dẫn đến thực trạng nhiều ngôi thánh đường bị phá bỏ hoặc tu sửa một cách đầy thiên kiến, gần như phớt lờ ý kiến của cộng đoàn dân Chúa và giới chuyên môn.

Dinh lang Mong phu.jpg (266 KB)
Đình làng Mông Phụ

Về mặt tâm linh, nhà thờ là trung tâm của đời sống đức tin, nơi hầu hết cả nghi thức phụng vụ được cử hành. Xét riêng khía cạnh này thì nhà thờ đóng vai trò lớn hơn vì giáo dân thường xuyên lui tới và tham dự thánh lễ, ít nhất vào các Chúa nhật. Trong khi đó, làng xã chỉ cúng đình vào các dịp lễ tế “Xuân - Thu nhị kỳ”. Hơn nữa, dưới tác động của đời sống hiện đại và sự phân rã về mặt cấu trúc của những làng xã nằm trong vùng đô thị, nhiều lễ cúng đình chỉ còn tái hiện các nghi thức cổ chứ không có sự tham gia thực chất của dân làng hay kỳ mục. Trong khi đó, các thánh lễ hàng ngày vẫn có sự tham gia trực tiếp của giáo dân. Đây là một điều đáng quý và cần cố gắng duy trì để không lâm vào tình trạng nhiều nhà thờ bị bỏ trống, nhiều giáo xứ phải nhập lại do thiếu cả giáo dân lẫn linh mục, như ở nhiều nước phương Tây. 

Về mặt văn hóa, nhà thờ cũng là nơi tổ chức lễ hội, nơi diễn ra các cuộc diễn xướng, nhất là vào các dịp lễ lớn như Giáng Sinh, Phục Sinh, Tết Nguyên đán. Không những thế, nhà thờ còn đóng vai trò như một trung tâm học tập cộng đồng với các lớp giáo lý, lớp học tình thương, các buổi tĩnh tâm, các khóa tập huấn, các workshop tôn giáo - xã hội… Trong phương diện đời sống, giáo dân gắn bó với nhà thờ nhiều hơn lương dân gắn bó với đình làng. Bởi vì, xuyên suốt cuộc đời người Công giáo, những sự kiện quan trọng nhất đều diễn ra ở nhà thờ. Từ lúc chỉ mới vài tháng tuổi, họ đã được rửa tội trong nhà thờ, đến khi biết đọc, biết viết thì vào nhà thờ dự lễ, học giáo lý mỗi tuần ít nhất một lần. Đến lúc lập gia đình, họ cử hành hôn lễ trong nhà thờ. Hoặc nếu không kết hôn mà quyết định đi theo ơn gọi của Thiên Chúa thì cũng vào nhà thờ lãnh nhận bí tích Truyền chức thánh. Gắn bó cả cuộc đời như vậy, đến khi nhắm mắt xuôi tay thì linh cữu của họ cũng được đem đến nhà thờ để cộng đoàn tiễn đưa lần cuối. Có thể nói, cuộc đời người Công giáo, từ lúc sinh ra cho đến lúc mất đi, gắn liền với nhà thờ.

Sản phẩm của tính cộng đồng và cấu trúc quản lý chặt chẽ là tính tự quản. Ở làng xã truyền thống, tính tự quản mạnh đến mức nhà nước phong kiến và thực dân đã nhiều lần thất bại khi cố gắng đặt ra một chức xã quan nhằm quản lý làng xã, thay cho vị lý trưởng được dân bầu ra. Tính tự quản được thể hiện rõ ràng ở việc mỗi làng có thể tồn tại như một triều đình thu nhỏ với hệ thống quản lý và luật pháp riêng (quan viên làng xã và hương ước). Kiểu triều đình thu nhỏ này độc lập và vững chắc đến mức trong nhiều trường hợp “phép vua phải thua lệ làng”. Cũng vì lẽ đó mà trong tâm thức của người Việt xưa, chỉ có làng và nước, còn các cấp trung gian như tổng, huyện, tỉnh, phủ, đạo… hầu như không quan trọng. Bởi thế mà trong lời ăn tiếng nói hằng ngày, người ta chỉ kêu “làng nước ơi” chứ không bao giờ nghĩ tới sự trợ giúp, cứu vớt của huyện, của tỉnh.

Tính tự quản của xứ đạo không sâu sắc và mạnh mẽ như tính tự quản của làng xã, các giáo xứ, họ đạo đã không còn đảm nhận vai trò hành chính, lãnh thổ như thuở xưa. Dẫu vậy, hệ thống điều phối và cách mà các sinh hoạt cộng đồng vận hành nơi xứ đạo vẫn còn mang nhiều nét tương đồng với làng xã

KỲ PHONG

Từ khoá:
Chia sẻ:

Bình luận

có thể bạn quan tâm

Món quà của những ngày yếu đuối
Món quà của những ngày yếu đuối
Lớn lên trong môi trường Công giáo, tôi đã quen với những lời dạy, những lễ nghi,  nhưng tôi chưa thể thực sự sống với điều đã học.
Công giáo Việt Nam  và văn hóa dân tộc
Công giáo Việt Nam và văn hóa dân tộc
Khi quy chiếu theo triết lý Âm - Dương, nền tảng của các nền văn hóa Á Đông, thì văn hóa Việt Nam thiên về âm tính.
Bình Dương tên gọi phường xã mới gắn với địa danh xưa (kỳ 4)
Bình Dương tên gọi phường xã mới gắn với địa danh xưa (kỳ 4)
Từ 1808 đã có địa danh Phú Lợi, là tên một làng (thôn) thuộc tổng Bình Chánh, huyện Bình An, phủ Phước Long, trấn Biên Hòa.
Món quà của những ngày yếu đuối
Món quà của những ngày yếu đuối
Lớn lên trong môi trường Công giáo, tôi đã quen với những lời dạy, những lễ nghi,  nhưng tôi chưa thể thực sự sống với điều đã học.
Công giáo Việt Nam  và văn hóa dân tộc
Công giáo Việt Nam và văn hóa dân tộc
Khi quy chiếu theo triết lý Âm - Dương, nền tảng của các nền văn hóa Á Đông, thì văn hóa Việt Nam thiên về âm tính.
Bình Dương tên gọi phường xã mới gắn với địa danh xưa (kỳ 4)
Bình Dương tên gọi phường xã mới gắn với địa danh xưa (kỳ 4)
Từ 1808 đã có địa danh Phú Lợi, là tên một làng (thôn) thuộc tổng Bình Chánh, huyện Bình An, phủ Phước Long, trấn Biên Hòa.
Vẻ đẹp theo năm tháng
Vẻ đẹp theo năm tháng
Tòa Giám mục Kon Tum là một trong những công trình kiến trúc và văn hóa nổi bật tại thành phố Kon Tum (cũ), điểm đến lý tưởng cho những ai đam mê tìm hiểu về lịch sử, văn hóa, và kiến trúc độc đáo của miền đất cao nguyên. 
Thu về nhớ “trong gia đình”
Thu về nhớ “trong gia đình”
Trung Thu năm đó, tôi có chuyến đi thiện nguyện với nhóm sinh viên ở huyện Bình Chánh (TPHCM), chỗ này xa trung tâm đâu chừng hai chục cây số, vậy mà xe đi hơn 2 tiếng đồng hồ mới tới nơi.
Công giáo Việt Nam và văn hóa dân tộc
Công giáo Việt Nam và văn hóa dân tộc
Ngày bổn mạng (quan thầy), nghi thức rước kiệu thường được cử hành trước thánh lễ theo hình thức của cuộc rước nhập lễ (proscessio).
Bình Dương tên gọi phường xã mới gắn với địa danh xưa (kỳ 3)
Bình Dương tên gọi phường xã mới gắn với địa danh xưa (kỳ 3)
Địa danh Bình Dương xuất hiện ở Việt Nam vào khoảng năm 1692, sau khi Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh thiết lập hệ thống quản lý hành chánh cho vùng đất phía Nam này.
Giờ đố vui giáo lý
Giờ đố vui giáo lý
Bên cạnh các hoạt động vui chơi, thời gian thi đố vui giáo lý còn mang đến niềm vui cho các em thiếu nhi khi có cơ hội thể hiện kiến thức đã học, đồng thời phát huy tinh thần chung sức của đội nhóm.
Ðiềm tĩnh  là một nội lực
Ðiềm tĩnh là một nội lực
Trong những ngày điều trị tại trung tâm vật lý trị liệu, thời gian như trôi chậm lại. Tôi mang theo một quyển sách nhỏ như một người bạn đồng hành, một nơi trú ẩn tinh thần. Cuốn sách “Điềm Tĩnh và Nóng Giận” giúp tôi tìm được sự bình...