Công giáo Việt Nam và văn hóa dân tộc

2.2 Cấu trúc làng xã của giáo xứ, họ đạo

Quan sát cách một xứ đạo vận hành, cách mà các sinh hoạt cộng đồng diễn ra trơn tru, nhịp nhàng, dưới sự hướng dẫn của linh mục, chúng ta có thể nhận ra khả năng tự quản và tồn tại một cách độc lập của giáo xứ, họ đạo. Nền tảng của khả năng này hệ thống vận hành mang nhiều nét tương đồng với hội đồng kỳ mục của làng xã truyền thống. Hệ thống ấy được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau như hội đồng mục vụ, ban hành giáo, ban chức việc, ban trùm họ hay ban quới chức.

SInh hoa CG xua.jpg (46 KB)
 Một cuộc rước kiệu xưa

Nhìn vào dòng lịch sử của Giáo hội Công giáo Việt Nam, sự hiện diện của những giáo dân lo việc tông đồ đã có từ buổi đầu truyền giáo, khi các vị thừa sai chọn ra một vài người có học thức và đức hạnh để chăm lo đời sống mục vụ. Trong ghi chép của các thừa sai vào đầu thế kỷ XVII, những người này được thường nhắc tới bằng tên thánh hoặc nghề nghiệp chứ chưa có một danh từ chung để gọi, ví dụ như thầy đồ, thân hào và thầy Pháp ở Cửa Bạng (Thanh Hóa); cụ Gioan Kim (Joachim) ở An Vực; ông bà Phanxicô (Francisco) ở Quảng Bình; bà Mai Đệ Liên (Madalena) và ông Antôn Tê (Antonio) ở Quảng Nam… Tính đến trước năm 1670, cũng chưa có một văn bản chính thức nào quy định chức năng và nhiệm vụ của những “giáo dân đặc biệt” đó. Họ chỉ âm thầm phục vụ theo sự chỉ dẫn của các vị thừa sai, đóng vai trò như “linh hồn của họ đạo” hay “cổ động viên nhiệt huyết của Phúc Âm” (theo nhận định của cha Alexandre de Rhodes), đã không ít người tử đạo. Về phía giáo dân, họ được gọi một cách kính trọng bằng các danh từ chung như trùm họ, quý chức... Tuy nhiên, vẫn chưa có tài liệu nào xác thực việc hai danh từ này được sử dụng từ khi nào, trước hay sau năm 1670.

Năm 1659, Tòa Thánh đã thiết lập hai giáo phận tông tòa (hạt đại diện tông tòa) Đàng Trong và Đàng Ngoài, chuyển Giáo hội Công giáo Việt Nam từ giai đoạn “Bảo hộ Truyền giáo” sang giai đoạn “Giám quản Tông tòa”, nghĩa là bắt đầu có điều hành mục vụ. Số lượng linh mục tại Việt Nam trong giai đoạn này không đủ để coi sóc tất cả các họ đạo, lại thêm những tồn đọng cần giải quyết từ giai đoạn “Bảo hộ Truyền giáo”, nên sự cộng tác của giáo dân trong đời sống mục vụ cùng cần thiết. Chính vì thế trong hai công nghị đầu tiên của Đàng Trong và Đàng Ngoài do Đức cha Lambert de la Motte triệu tập đã có những quy định chính thức về các tông đồ giáo dân (trùm họ hay quý chức) như sau:

Điều 7, công nghị Phố Hiến (Hưng Yên, năm 1670) viết: “Nơi nào có đông tín hữu, thì mỗi họ đạo sẽ cắt cử những người đức hạnh nhất chăm lo việc hội họp kinh nguyện, việc rao lịch, giúp giáo dân giữ cẩn thận các ngày kiêng thịt và quan tâm đến những người khác”.

Điều 4, công nghị Hội An (Quảng Nam, năm 1672) viết: “Tại những nơi có đông tín hữu, người ta sẽ tuyển chọn một người có tiếng khôn ngoan và đạo đức. Khi vắng linh mục hay thầy giảng, người này có thể giúp đỡ giáo hữu đọc kinh các ngày lễ và công bố các quyết định của chúng tôi. Người này có thể thăm viếng và trợ giúp tín hữu bệnh hoạn, rửa tội trẻ nhỏ cũng như người hấp hối muốn được rửa tội. Và nếu có thể làm được, người này hãy dạy luật lệ của Chúa Kitô và các sự cần thiết khác để được rửa tội. Mỗi khi rửa tội các trẻ nhỏ hay người lớn tuổi cận kề cái chết, người này sẽ ghi chú tên cha mẹ, tên sinh, tên làng xóm, ngày tháng năm, và lời điều tra trước xem họ có bị ràng buộc trong hôn nhân không. Người này phải giữ sổ khai tử và hôn nhân…”.

Văn bản chính thức của công nghị Phố Hiến được Đức Giáo Hoàng Clement X duyệt y trong đoản sắc Apostolatus Officium ký ngày 23.12.1673. Nghĩa là năm 1673, việc lựa chọn những giáo dân thích hợp để phụ giúp linh mục điều hành mục vụ đã được chuẩn y, trở thành một cơ chế đặc thù của Giáo hội Việt Nam. Thuở ban đầu, mỗi xứ đạo chỉ có một hai người thực hiện những công việc nêu trong Điều 4 - công nghị Hội An. Lâu dần, mỗi giáo họ một người, rồi vài ba người để coi sóc. Họ họp thành một tổ chức mà giáo dân vẫn quen gọi là ban trùm họ, ban chức việc, hay ban quới chức.

Tóm lại, có thể nói, sự ra đời của hội đồng mục vụ là do nhu cầu và điều kiện đặc thù của Giáo hội tại Việt Nam, gắn liền với hai công nghị do một giáo sĩ phương Tây triệu tập. Nhưng không vì thế mà cấu trúc và phương thức vận hành của hội đồng mục vụ mang đậm nét Tây phương hay “nửa Tây - nửa ta”, trái lại, có nhiều điểm tương đồng với làng xã truyền thống. Có lẽ, sự tương đồng này đến từ chính các giáo dân được chọn làm trùm họ (quý chức), những người xuất thân từ làng xã đã quen thuộc với cách tổ chức của hội đồng kỳ mục. Để nhìn thấy những điểm tương đồng, hãy cùng so sánh và phân tích làng xã truyền thống với giáo xứ, họ đạo:

Theo thành phần dân cư thì làng xã truyền thống được chia thành năm hạng “chính yếu”: chức sắc, chức dịch, lão, đinh và ti ấu. Trong đó, chức sắc những người đỗ đạt hoặc có phẩm hàm do triều đình sắc phong, chức dịch những người làm việc trong làng xã do dân bầu ra, lão các cụ ông, đinh trai tráng và ti ấu những bé trai. Do quan niệm trọng nam khinh nữ nên hệ thống phân cấp truyền thống này hoàn toàn không đề cập đến đàn bà, con gái. Ba hạng đầu là chức sắc, chức dịch và lão niên được gọi chung là quan viên hàng xã. Về mặt hành chánh, nhóm quan viên này gồm ba thành phần là kỳ mục, kỳ dịch và kỳ lão. Trong đó, kỳ mục là hội đồng có nhiệm vụ bàn bạc và quyết định mọi công việc của làng xã (đứng đầu là tiên chỉ và thứ chỉ); kỳ dịch là những người thi hành mọi quyết định của hội đồng kỳ mục (đứng đầu là lý trưởng); còn kỳ lão những người cao tuổi nhất, đóng vai trò vấn cho hội đồng kỳ mục. So sánh với cấu trúc theo chiều dọc của xứ đạo thì hội đồng kỳ mục tương đương với tập thể bao gồm linh mục và hội đồng mục vụ. Trong đó, linh mục chánh xứ đóng vai trò như tiên chỉ, người đứng đầu với phẩm hàm do Giáo hội truyền ban; linh mục phó xứ thứ chỉ; Hội đồng mục vụ gần giống với chức dịch và người đứng đầu là chủ tịch (chánh trương) thì có vai trò tương tự như lý trưởng. Trong xứ đạo không có một hội đồng đóng vai trò như kỳ lão nhưng việc phân chia lão, đinh, ấu trong sổ đinh giống với việc phân chia các giới cao niên, gia trưởng, thiếu nhi của xứ đạo. Chỉ có khác là hai giới cao niên và thiếu nhi bao gồm cả nữ giới chứ không loại họ ra như làng xã. Đồng thời, phụ nữ trong xứ đạo cũng có một giới riêng để sinh hoạt là giới hiền mẫu.

(còn nữa)

KỲ PHONG

Từ khoá:
Chia sẻ:

Bình luận

có thể bạn quan tâm

Món quà của những ngày yếu đuối
Món quà của những ngày yếu đuối
Lớn lên trong môi trường Công giáo, tôi đã quen với những lời dạy, những lễ nghi,  nhưng tôi chưa thể thực sự sống với điều đã học.
Công giáo Việt Nam  và văn hóa dân tộc
Công giáo Việt Nam và văn hóa dân tộc
Khi quy chiếu theo triết lý Âm - Dương, nền tảng của các nền văn hóa Á Đông, thì văn hóa Việt Nam thiên về âm tính.
Bình Dương tên gọi phường xã mới gắn với địa danh xưa (kỳ 4)
Bình Dương tên gọi phường xã mới gắn với địa danh xưa (kỳ 4)
Từ 1808 đã có địa danh Phú Lợi, là tên một làng (thôn) thuộc tổng Bình Chánh, huyện Bình An, phủ Phước Long, trấn Biên Hòa.
Món quà của những ngày yếu đuối
Món quà của những ngày yếu đuối
Lớn lên trong môi trường Công giáo, tôi đã quen với những lời dạy, những lễ nghi,  nhưng tôi chưa thể thực sự sống với điều đã học.
Công giáo Việt Nam  và văn hóa dân tộc
Công giáo Việt Nam và văn hóa dân tộc
Khi quy chiếu theo triết lý Âm - Dương, nền tảng của các nền văn hóa Á Đông, thì văn hóa Việt Nam thiên về âm tính.
Bình Dương tên gọi phường xã mới gắn với địa danh xưa (kỳ 4)
Bình Dương tên gọi phường xã mới gắn với địa danh xưa (kỳ 4)
Từ 1808 đã có địa danh Phú Lợi, là tên một làng (thôn) thuộc tổng Bình Chánh, huyện Bình An, phủ Phước Long, trấn Biên Hòa.
Vẻ đẹp theo năm tháng
Vẻ đẹp theo năm tháng
Tòa Giám mục Kon Tum là một trong những công trình kiến trúc và văn hóa nổi bật tại thành phố Kon Tum (cũ), điểm đến lý tưởng cho những ai đam mê tìm hiểu về lịch sử, văn hóa, và kiến trúc độc đáo của miền đất cao nguyên. 
Thu về nhớ “trong gia đình”
Thu về nhớ “trong gia đình”
Trung Thu năm đó, tôi có chuyến đi thiện nguyện với nhóm sinh viên ở huyện Bình Chánh (TPHCM), chỗ này xa trung tâm đâu chừng hai chục cây số, vậy mà xe đi hơn 2 tiếng đồng hồ mới tới nơi.
Công giáo Việt Nam và văn hóa dân tộc
Công giáo Việt Nam và văn hóa dân tộc
Ngày bổn mạng (quan thầy), nghi thức rước kiệu thường được cử hành trước thánh lễ theo hình thức của cuộc rước nhập lễ (proscessio).
Bình Dương tên gọi phường xã mới gắn với địa danh xưa (kỳ 3)
Bình Dương tên gọi phường xã mới gắn với địa danh xưa (kỳ 3)
Địa danh Bình Dương xuất hiện ở Việt Nam vào khoảng năm 1692, sau khi Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh thiết lập hệ thống quản lý hành chánh cho vùng đất phía Nam này.
Giờ đố vui giáo lý
Giờ đố vui giáo lý
Bên cạnh các hoạt động vui chơi, thời gian thi đố vui giáo lý còn mang đến niềm vui cho các em thiếu nhi khi có cơ hội thể hiện kiến thức đã học, đồng thời phát huy tinh thần chung sức của đội nhóm.
Ðiềm tĩnh  là một nội lực
Ðiềm tĩnh là một nội lực
Trong những ngày điều trị tại trung tâm vật lý trị liệu, thời gian như trôi chậm lại. Tôi mang theo một quyển sách nhỏ như một người bạn đồng hành, một nơi trú ẩn tinh thần. Cuốn sách “Điềm Tĩnh và Nóng Giận” giúp tôi tìm được sự bình...