Trong cộng đồng Công giáo Việt Nam, liên kết này cực kỳ vững chắc và mạnh mẽ. Cũng chính liên kết này đã giúp các giáo xứ di dân từ miền Bắc quần tụ định cư chung ở từng vùng tại các tỉnh miền Nam sau năm 1954, trên cơ sở có chung một niềm tin và nguyên quán. Với tình cảm hoài hương sâu sắc, các giáo xứ này mang theo những cái tên cũ và sử dụng chúng theo nhiều cách khác nhau. Có giáo xứ sử dụng nguyên tên gọi gốc như Kẻ Sặt (Đồng Nai, giáo xứ gốc ở Hải Dương), Trà Cổ (Đồng Nai, giáo xứ gốc ở Quảng Ninh), Hoàng Mai (TPHCM, giáo xứ gốc ở Bắc Giang)… Có giáo xứ sử dụng tên giáo phận hoặc vùng đất quê hương, như Hà Nội, Thanh Hóa, Bùi Chu (đều ở Đồng Nai), Hà Nội, Lạng Sơn, Phát Diệm, Thái Bình (đều ở TPHCM)... Có giáo xứ lại ghép tên của hai giáo phận gốc hoặc ghép tên gọi cũ với nơi định cư mới, như Bùi Phát (ở TPHCM, ghép từ tên hai giáo phận Bùi Chu và Phát Diệm), Bùi Môn (ở TPHCM, ghép từ tên giáo phận Bùi Chu và vùng định cư mới Hóc Môn), Long Điền (ở Bình Phước, ghép từ vùng định cư mới Phước Long và giáo xứ Lương Điền)... Cũng có giáo xứ thêm từ “tân” vào trước tên gọi để nói về một khởi đầu mới, như Tân Sa Châu (ở TPHCM, Tân là mới, Sa Châu là tên giáo xứ gốc ở Nam Định), Tân Phú Hòa (ở TPHCM, Tân là mới, Phú lấy từ tên vùng định cư mới Phú Trung, Hòa lấy từ tên giáo xứ gốc Hòa Khánh), Tân Thái Sơn (ở TPHCM, Tân là mới, Thái lấy từ tên giáo phận gốc Thái Bình, Sơn là lấy từ tên vùng định cư mới Tân Sơn Nhì)...

Liên kết gắn liền với cấu trúc làng xã của xứ đạo là liên kết cộng đồng. Liên kết này không chỉ hình thành dựa trên đời sống phụng vụ và các hoạt động do giáo xứ tổ chức, mà còn được nuôi dưỡng bằng các sinh hoạt của hội, đoàn, ban, giới… Những sinh hoạt này tạo điều kiện cho các mối quan hệ của giáo dân trở nên dày đặc và sự gắn kết giữa họ ngày càng mạnh mẽ hơn, nhất là trong xã hội hiện đại, khi con người có xu hướng tìm kiếm sự tương đồng về tư tưởng, tình cảm, lòng sùng kính, mục tiêu… Và, các hội, đoàn, ban, giới… là môi trường lý tưởng để nuôi dưỡng những tương đồng ấy.
Có một liên kết nữa mà ít người nhớ tới khi nói về xứ đạo, đó chính là liên kết kinh tế. Liên kết này thể hiện một cách rõ ràng nơi các xứ di dân, khi họ mang theo cả nghề nghiệp truyền thống đến nơi định cư mới, hoặc cùng nhau chọn một nghề mới để có thể hỗ trợ qua lại như truyền thống lao động của quê hương. Giáo dân của các xứ ấy thường hợp thành các cụm dân cư theo nghề nghiệp, cùng làm một công việc, cùng buôn một mặt hàng như các phường, hội thuở xưa. Một vài ví dụ có thể kể đến là hai giáo xứ Bình An, Bình Thái (TPHCM) từng rất nổi tiếng với nghề dệt chiếu; Bùi Môn với nghề dệt; Bình Đông may quần áo; giáo hạt Hố Nai (Đồng Nai) thì hình thành nhiều cửa hàng đồ gỗ và làm tượng thánh… Cũng có những giáo xứ, họ đạo không phải là di dân mới, đã định cư lâu đời, nhưng sống trong làng nghề đã đi vào tên gọi như Xóm Chiếu (TPHCM, xưa dân trong vùng có nghề dệt chiếu), Xóm Thuốc (TPHCM, xưa dân xứ này chuyên trồng thuốc lá, nổi tiếng với thương hiệu thuốc lá Gò Vấp), và giáo dân tại chỗ là một phần của làng đó, cũng có liên kết với nhau trong nghề nghiệp...
Ngoài ra, còn có một liên kết không chỉ kết nối cộng đoàn dân Chúa mà còn tạo nên tầm ảnh hưởng của Giáo hội, đó là liên kết an sinh xã hội. Liên kết này hình thành thông qua các công tác xã hội như giáo dục, thiện nguyện, chăm sóc sức khỏe… Người được hưởng lợi và gắn bó với giáo xứ, họ đạo thông qua liên kết này không chỉ là giáo dân mà còn có cả những hoàn cảnh khó khăn trong vùng hay ở một cộng đồng nào đó. Họ có thể theo một tôn giáo nào khác hoặc tín ngưỡng dân gian. Họ đến với các cơ sở Công giáo để tìm kiếm sự giúp đỡ và được đón nhận. Đây không chỉ là một phương thức thể hiện tinh thần bác ái - yêu thương, mà còn là cách giới thiệu tinh thần Tin Mừng, tạo ra những gắn kết mới cho cộng đồng Công giáo. Lấy Tổng Giáo phận TP Hồ Chí Minh làm ví dụ, trước năm 1975 từng có nhiều trường tiểu học và sơ cấp, trường trung học, trường kỹ thuật và chuyên nghiệp, trường đại học, các cơ sở bác ái xã hội. Ngày này, đã có nhiều trường chuyển giao nhà nước quản lý để tiếp tục công việc giáo dục, quy mô của các cơ sở an sinh Công giáo đã có nhiều thay đổi theo những cách thức khác nhau của thời đại, nhưng tinh thần và sự cố gắng của cộng đoàn dân Chúa, từ giáo sĩ, tu sĩ đến giáo dân vẫn là rất đáng ghi nhận. Tính đến năm 2018, Tổng Giáo phận có 170 cơ sở giáo dục (trường mẫu giáo, lớp học tình thương, lớp dạy nghề), 63 cơ sở trợ giúp xã hội (cô nhi viện, nhà dưỡng lão, nhà khuyết tật), 16 cơ sở y tế, trong đó có những cơ sở khám chữa bệnh miễn phí hoặc hỗ trợ bệnh nhân nghèo… Các cơ sở an sinh xã hội này không chỉ là ví dụ cho tình yêu thương của dân Chúa, tinh thần tương thân tương ái của dân tộc, mà còn là minh chứng điển hình cho việc duy trì liên kết an sinh xã hội, giữ vững và mở rộng cộng đồng Công giáo Việt Nam.
(còn nữa)
KỲ PHONG
Bình luận