Niềm tin phổ quát vào một người Mẹ linh thiêng luôn che chở và nuôi dưỡng đàn con, khi tiếp xúc với tâm thức của một dân tộc có truyền thống thờ Mẫu, đã tạo nên một lòng sùng kính sâu đậm và mãnh liệt, làm nảy sinh những thực hành mang đậm tính dân gian. Chẳng hạn, theo một nghiên cứu, nhiều phụ nữ Công giáo Việt Nam chiêm ngắm hình ảnh Mẹ Thiên Chúa (quen gọi là Mẹ bồng con) lúc mang thai, với tâm niệm Đức Maria cũng từng mang nặng đẻ đau nên sẽ thấu hiểu và giúp họ vượt cạn suôn sẻ. Bên cạnh đó, một số phụ nữ lớn tuổi còn có thói quen nói “Đức Bà chữa” khi thấy một đứa trẻ hắt xì, giống như cách bà con lương dân nói “cơm muối” trong trường hợp tương tự. Ví dụ gần gũi và phổ biến nhất là phần lớn các tín hữu Công giáo Việt Nam có thói quen gọi Đức Maria bằng những từ thân thương như Đức Bà, Đức Mẹ, Mẹ Maria…, hay chỉ đơn giản một từ Mẹ.

Trong cuốn “Nghi lễ và lối sống Công giáo trong văn hóa Việt Nam” (xuất bản năm 2001), PGS.TS Nguyễn Hồng Dương từng ghi nhận tại một số địa phương có tục “bán con cho Đức Mẹ”, tương tự như hình thức “bán khoán” con cái cho đền chùa, để cầu mong đứa trẻ “dễ nuôi”, trong đời sống người Việt xưa. Ngày nay, tục lệ này không còn phổ biến nhưng dấu tích văn hóa thì vẫn được lưu giữ trong lời kinh “…xưa Mẹ đã hiến dâng Con Mẹ trong Đền Thánh, thì hôm nay đây, chúng con cũng đem dâng lên Thiên Chúa Ba Ngôi, qua bàn tay dịu hiền của Mẹ, những người con mà Chúa nhân ái đã ban cho chúng con” được đọc vào lễ Ðức Maria dâng Chúa Giêsu trong Đền Thánh (quen gọi là lễ Mẹ dâng Con), khi những người mẹ Công giáo bế con mình đến nhà thờ để dâng lên Thiên Chúa. Đáng chú ý là trong lời kinh này, Đức Maria không còn là đấng duy nhất đón nhận những đứa trẻ như trong tục “bán khoán”, mà đóng vai trò như một trung gian hỗ trợ những người phụ nữ kính dâng con mình lên Thiên Chúa. Đây là một điều chỉnh phù hợp với đức tin và giáo lý của Hội Thánh Công giáo.
4.3 Nhìn nhận và điều chỉnh
Sự tiếp biến và dung hợp dựa trên những điểm tương đồng giữa các nền văn hóa không phải là hiếm gặp, ngay cả với Giáo hội Công giáo, trên con đường loan báo Tin Mừng. Dù vẫn luôn trung thành với một đức tin duy nhất và nguyên bản, Giáo hội đã không ít lần diễn giải đức tin bằng ngôn ngữ văn hóa của các dân tộc. Chính vì thế mà việc Đức Maria được tiếp biến với hình tượng một vị Mẫu trong tâm thức của tín hữu Việt Nam không phải ngoại lệ, mà là một minh chứng sống động cho khả năng hội nhập văn hóa của Giáo hội.
Trường hợp tương tự đã từng diễn ra ở Constantinople (Istanbul ngày nay), khi đế chế La Mã cải đạo. Thuở ban đầu, thành phố này được dâng hiến cho Hecate - một nữ thần Mặt trăng trong văn hóa Hy Lạp cổ đại. Sau đó, vị thần này được đồng hóa với Artemis - vị nữ thần đồng trinh, tham gia bảo hộ cho việc sinh nở và cũng là nữ thần Mặt Trăng. Vào thế kỷ IV, khi Tin Mừng lan truyền rộng rãi trong không gian văn hóa Hy - La, hai đặc tính đồng trinh và bảo hộ cho việc sinh nở được liên kết với Đức Maria. Mối liên hệ với mặt trăng cũng dần được tiếp biến thông qua hình tượng người phụ nữ trong sách Khải huyền: “…mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 12, 1). Chính từ sự tiếp biến ấy mà Đức Maria trở thành thánh bổn mạng (quan thầy) của Constantinople từ thời đế chế Đông La Mã.
Lòng sùng kính mãnh liệt vừa bắt nguồn từ giáo lý của Hội Thánh, vừa hòa hợp với văn hóa dân tộc cũng đã tạo nên vị trí trổi vượt của Đức Maria trong lòng các tín hữu Việt Nam. Vị thế nổi bật ấy có thể được nhìn thấy trên bàn thờ của mọi gia đình Công giáo, nơi tranh, ảnh, tượng của Đức Maria chẳng bao giờ thiếu vắng. Không ít gia đình còn treo ảnh Mẹ trong từng phòng riêng hoặc đặt một bức tượng thật lớn ở trước nhà. Tương tự, trong mọi nhà thờ ở Việt Nam, tượng Đức Maria luôn được đặt một cách trang trọng bên hữu thánh giá, trong khi các nhà thờ ở phương Tây thường đặt tượng vị thánh bổn mạng (quan thầy) của mình. Ở ngoài sân, nhiều giáo xứ ở nước ta còn xây dựng linh đài hoặc núi Đức Mẹ. Đồng thời, có 12/27 giáo phận Việt Nam nhận Đức Maria và các thánh hiệu của Người làm bổn mạng, nhiều hơn hẳn các vị thánh khác. Trên khắp cả nước, có nhiều trung tâm hành hương gắn liền với Đức Maria được các tín hữu ngày ngày lui tới như La Vang, Trà Kiệu, Tà Pao, Măng Đen, Núi Cúi, Fatima Bình Triệu…
Lòng sùng kính đặc biệt này đã nuôi dưỡng các giờ kinh Mân Côi trong xã hội hiện đại. Để rồi, những lời kinh mang tâm tình Dân Chúa lại vun đắp cho đức tin và sự cậy trông bền bỉ trước các biến động của thời cuộc. Bên cạnh đó, nhờ tiếng nói mang ngôn ngữ dân tộc, dựa trên các sự tương đồng với hình tượng Thánh Mẫu của tín ngưỡng dân gian, mà lòng sùng kính Đức Maria đã có thể lan truyền đến một tôn giáo nội sinh và cởi mở là Cao Đài (Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ). Năm 1974, một bức tượng Đức Mẹ đã được rước từ Bồ Đào Nha đến Tòa Thánh Tây Ninh một cách long trọng và an vị trong Bá Huê Viên thuộc nội ô Tòa Thánh. Ngày nay, bức tượng ấy vẫn được các đạo hữu Cao Đài tôn kính, đặt trong một núi đá có tấm bảng đề “Thánh Mẫu Phatima”.
Tuy nhiên, trong thực tế đời sống, cũng cần có những điều chỉnh cần thiết, nhất là việc một số tín hữu còn nhầm lẫn về tính che chở của Đức Maria, xem người là đấng ban ơn như một vị Mẫu, chứ không phải đấng thông ơn Thiên Chúa. Suy nghĩ này chưa phù hợp với giáo lý của Hội Thánh Công giáo, cần được điều chỉnh một cách nhẹ nhàng và chậm rãi, thông qua các bài giảng chân tình, các chia sẻ gần gũi và ví dụ trực quan. Đồng thời, cùng cần tránh các phê phán gay gắt hoặc lên án khi nói về suy nghĩ chưa phù hợp này để không tạo ra các phản ứng tiêu cực, ảnh hưởng đến lòng sùng kính đáng trân quý và tổn lại tình liên đới của cộng đoàn. Bên cạnh đó, cũng nên tiếp tục khuyến khích và tổ chức các hoạt động theo gương sáng của Đức Maria, để lòng sùng kính dần trở thành hành động yêu thương, khiêm nhường, vâng phục…, mang tới cho các tín hữu nhiều ơn ích hơn nữa.
KỲ PHONG
Bình luận