5. Thành hoàng của làng Công giáo
Sẽ thật sự thiếu sót nếu nhắc đến các giáo xứ, họ đạo như những “làng Công giáo” đang kế thừa và phát huy văn hóa dân tộc mà không đề cập đến tục lệ thờ thành hoàng - một truyền thống đặc trưng của làng xã Việt Nam. Thoạt tiên, nhận định này có thể gây tranh cãi vì người Công giáo không thờ các vị thành hoàng của tín ngưỡng dân gian, nhưng khi quan sát các giáo xứ, họ đạo tôn kính và mừng lễ bổn mạng (quan thầy), có thể nhận ra đây là sự tiếp nối của tục lệ này.

5.1 Thành hoàng và thánh bổn mạng (quan thầy)
Theo Việt Nam phong tục của Phan Kế Bính thì “mỗi làng phụng sự một vị thành hoàng; có làng thờ hai, ba vị; có làng thờ năm, bảy vị”. Thuở ban đầu, triều đình phong kiến chỉ lập miếu thờ các thần danh sơn (núi nổi tiếng), đại xuyên (sông lớn), sau mới lập đền thờ các vị trung thần nghĩa sĩ để dân cư gần đó lo việc tế tự. Rồi làng này thấy làng kia có đền, có miếu thì bắt chước theo. Làng nào có sẵn anh hùng, hào kiệt đã qua đời thì chọn làm thành hoàng. Làng nào không có thì rước thần ở nơi khác về thờ. Hoặc cũng có khi, nhân một việc linh dị, bói toán, trùng hợp… mà họ thờ một người không có công trạng gì, một con thú hay thậm chí là một tảng đá. Từ đó dẫn đến việc làng nào cũng có thành hoàng và không ít thành hoàng là những tà thần, ngẫu tượng. Về sau, để khẳng định quyền lực của thiên tử và củng cố trật tự xã hội theo tư tưởng Nho giáo, triều đình phong kiến mới tiến hành sắc phong cho các vị thành hoàng. Việc làm này vừa khẳng định tư tưởng vua là người trị vì thiên hạ theo mệnh trời, có quyền sắc phong cho cả thần linh, vừa điều chỉnh các sinh hoạt tâm linh của làng xã theo hướng khuyến khích tôn thờ những bậc trung quân ái quốc, những vị thần được triều đình công nhận. Dầu vậy, việc sắc phong lại không đi cùng với động thái loại bỏ các tà thần, ngẫu tượng khỏi đời sống tâm linh nơi làng xã. Chính vì thế mà thành hoàng có thể là phúc thần hoặc tà thần. Phúc thần được triều đình phong kiến chia thành ba hạng là thượng đẳng, trung đẳng và hạ đẳng. Trong đó, thượng đẳng thần là các vị thiên thần có sự tích linh dị mà không rõ tung tích ẩn hiện thế nào như Chử Đồng Tử, Sóc Thiên Vương, Đổng Thiên Vương…; hoặc các vị nhân thần có đại công với đất nước, sự tích công trạng rõ ràng như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo… Trung đẳng thần là các vị được dân làng thờ đã lâu, có họ tên mà không rõ công trạng, hoặc có quan tước mà không rõ họ tên, cũng có phần linh dị. Hạ đẳng thần là những vị không rõ sự tích nhưng vẫn thuộc về bậc chính thần. Còn tà thần là những vị thành hoàng mà Phan Kế Bính xem là “thờ bậy thờ bạ” như thần bán lợn, thần trẻ con, thần ăn xin, thần chết nghẹn, thần tà dâm, thần rắn, thần rết… Về vai trò của thành hoàng trong đời sống làng xã, linh mục Alexandre de Rhodes viết: “Trong mỗi thành phố hay mỗi thôn xã đều có một đền thờ lớn gọi là đình thờ… thành hoàng, nơi đây, các kỳ hào hội nhau bàn việc chung trong thôn xã và chỉ muốn làm trước mặt và dưới sự che chở của vị thần. Mỗi năm, để tôn vinh vị thành hoàng thì họ tổ chức lễ lạt công cộng, có ca hát múa nhảy và tiệc tùng một hay hai tháng, vì cho rằng tất cả sự thịnh vượng làm ăn, sự phì nhiêu của ruộng đồng, sức khỏe của dân làng và súc vật đều phụ thuộc vào vị thành hoàng” (trích Lịch sử Vương quốc Đàng Ngoài).
Khi so sánh những nhận định về thành hoàng ở trên với các văn bản chính thức của Giáo hội và thực hành của cộng đoàn Dân Chúa liên quan đến thánh bổn mạng, ta có thể nhận ra nhiều khác và giống như sau:
Trước tiên, có phải giáo xứ, họ đạo nào cũng có ít nhất một vị thánh bổn mạng (quan thầy) giống như làng xã truyền thống có thành hoàng hay không? Câu trả lời là: không. Nhiều bạn đọc Công giáo có thể ngạc nhiên trước điều này, vì hầu như nhà thờ giáo xứ nào cũng mang một tước hiệu và tước hiệu ấy thường là bổn mạng chung của toàn giáo xứ. Trước hết, để hiểu rõ mối liên hệ giữa “tước hiệu nhà thờ” và “bổn mạng giáo xứ”, cần phải dựa vào Omnis ecclesia titulum (tạm dịch: Mỗi nhà thờ đều có một tước hiệu) do Thánh bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích ban hành. Trong văn bản này, điều 1 quy định: Mỗi nhà thờ phải có một tước hiệu được chỉ định trong một buổi cử hành phụng vụ, một thánh lễ cung hiến hoặc làm phép. Cũng trong văn bản trên, điều 2 xác định các đối tượng có thể được chọn làm tước hiệu, gồm: Ba Ngôi Cực Thánh, Chúa Giêsu Kitô (với các mầu nhiệm hoặc danh xưng trong phụng vụ), Chúa Thánh Thần, Đức Maria (với các tước hiệu đã có trong phụng vụ), các thiên thần, các vị thánh hoặc chân phước đã có tên trong Sổ các Thánh Rôma. Đồng thời, điều 5 của văn bản đưa ra giới hạn thánh bổn mạng “là đấng trung gian hoặc bầu chữa trước mặt Thiên Chúa”, nghĩa là một thụ tạo như Đức Trinh Nữ Maria, các thiên thần, một vị thánh hay chân phước. Vì lý do đó, Ba Ngôi Chí Thánh và từng Ngôi riêng biệt không thể được chọn làm bổn mạng. Như vậy, nếu tước hiệu của nhà thờ là Ba Ngôi hoặc liên quan đến một trong Ba Ngôi như Thánh Linh, Thánh Tâm, Lòng Chúa Thương xót… thì tước hiệu ấy không thể xem là bổn mạng của giáo xứ được. Chính vì thế mà điều 10 của thông báo trên nói rằng: “Bổn mạng của một địa điểm được phân biệt với tước hiệu của một nhà thờ; hai danh xưng này có thể giống nhau, nhưng không nhất thiết phải như vậy”. Thêm vào đó, thì điều 3 lại khuyên “mỗi nhà thờ chỉ nên có một tước hiệu, trừ khi tước hiệu được chọn bắt nguồn từ các thánh được ghi chung trong Lịch phụng vụ” (giống như hai thánh Phêrô và Phaolô, hai thánh Anna và Gioa Kim, thánh Carolo Lwanga và các bạn tử đạo…). Từ đó dẫn đến việc nhiều giáo xứ, họ đạo có nhà thờ chính, có tước hiệu nhưng không có bổn mạng theo đúng quy định của Giáo hội. Nhưng trong thực tế, phần lớn giáo dân vẫn xem những tước hiệu liên quan đến Ba Ngôi Thiên Chúa là bổn mạng của giáo xứ và tiến hành các hoạt động mừng kính vào dịp lễ chính thức.
Về mặt tiến trình thì việc phong thánh và chọn bổn mạng (quan thầy) diễn ra theo trình tự ngược lại so với việc thờ tự và sắc phong thành hoàng. Trong khi thành hoàng thường được dân làng thờ phụng trước rồi mới được triều đình ban sắc công nhận, thì một vị thánh phải được Giáo hội Công giáo tôn phong từ trước, rồi mới được các giáo xứ, họ đạo xin nhận làm bổn mạng (quan thầy). Đồng thời, việc cộng đoàn nhận một vị thánh làm bổn mạng (quan thầy) phải được sự thông qua của giáo quyền. Cụ thể, điều 9 trong Omnis ecclesia titulum, viết: “Vị thánh bổn mạng phải được chọn bởi hàng giáo sĩ cùng các tín hữu, và lựa chọn của họ phải được sự chấp thuận của giáo quyền…”. Chính do tiến trình như đã nêu mà ở các xứ đạo không có hiện tượng thờ tà thần như vẫn thấy ở một số làng xã truyền thống. Điều này thể hiện sự thống nhất và vâng phục của cộng đoàn Dân Chúa trong các vấn đề liên quan đến đức tin, bất kể truyền thống hay văn hóa.
Giáo hội Công giáo nhìn nhận các thánh bổn mạng (quan thầy) là những đấng trung gian và chuyển cầu cho cộng đoàn trước Tòa Thiên Chúa. Đồng thời, Giáo hội cũng khuyến khích các tín hữu tôn kính thánh bổn mạng như một gương mẫu đức tin, để học theo các ngài mà sống xứng đáng là con cái Chúa. Nhưng thực tế, trong tâm thức tôn giáo của nhiều tín hữu Việt Nam, vai trò của thánh bổn mạng mang đậm sắc thái dân gian và gần gũi với hình tượng thành hoàng. Đối với họ, thánh bổn mạng của giáo xứ, họ đạo giống như một vị thần bảo trợ, mang đến sự bình an và thịnh vượng. Theo ghi nhận của Vũ Văn Đạt (vào 2018), một giáo dân của giáo xứ Bình Hải (giáo phận Bùi Chu) đã chia sẻ: “Ở đây chúng tôi rất kính thánh quan thầy. Mỗi khi trong xứ đạo có việc quan trọng như sửa sang nhà thờ, sửa gác chuông, xây nhà giáo lý, chuẩn bị tuần chầu…, cha xứ và giáo dân đều hướng lên thánh quan thầy, cầu xin Ngài ban cho được bình yên, công việc suôn sẻ, không thì không yên tâm làm gì”. Từ chia sẻ này, có thể nhận ra sự tương đồng với hai nhận định về thành hoàng của linh mục Alexandre de Rhodes trong Lịch sử Vương quốc Đàng Ngoài là họ “chỉ muốn làm trước mặt và dưới sự che chở của vị thần”, “họ cho rằng tất cả sự thịnh vượng làm ăn, sự phì nhiêu của ruộng đồng, sức khỏe của dân làng và súc vật đều phụ thuộc vào vị thành hoàng”.
KỲ PHONG
Bình luận