Trong khuôn viên Tòa Giám mục Qui Nhơn, nếu có dịp chậm rãi tản bộ dọc các lối đi có hàng me xanh cổ thụ, sẽ dễ dàng bắt gặp những mô hình nhà tranh vách đất nho nhỏ, lạ mắt. Ðây là những ngôi nhà gì? Tại sao lại được dựng ở đây?... Hỏi chuyện và được giải đáp, chúng tôi đã không tránh khỏi cảm giác bâng khuâng khi nghĩ về một thời quá vãng của nhiều xứ đạo trong giáo phận miền biển xanh cát trắng.

Nặng lòng với di sản
20 mô hình được đặt xen kẽ nhau là tượng trưng cho 20 xứ đạo thuộc giáo phận Qui Nhơn nay đã không còn. Ở mỗi “ngôi nhà” đều có bảng đề tên xứ và vùng đất nơi từng có một xóm đạo, giáo đường, tín hữu…, và luôn kèm theo ở đầu những cái tên là hai chữ “THƯƠNG NHỚ”, như một sự tiếc nuối nghe chừng khó nguôi, nhiều day dứt… Và nếu để ý sẽ thấy, trong mỗi “nhà” đều chứa một nắm đất hay cát vun đầy, được cha Gioan Võ Đình Đệ - một nhà nghiên cứu lịch sử giáo phận và cũng là người có nhiều trăn trở với từng bước đi của các giáo đoàn tại địa phương này - đem về, sau khi tìm đến khoảng 20 họ đạo vì nhiều lý do khác nhau đã không còn tồn tại trên thực tế. Cha Đệ cũng chính là tác giả của cụm tiểu cảnh.
“Mỗi lần có dịp ghé đến điểm nào, mình lại bốc một nắm đất cất vô túi, như một sự cụ thể hóa những nhớ thương về xứ sở, con người của một vùng”, cha Đệ kể khi giới thiệu với tôi công trình mang tính biểu trưng nhưng đầy ý nghĩa, cũng có thể gọi là khá độc đáo. Lẽ tất nhiên, lý do khiến cha vun đắp nên những “thương nhớ” là bởi một lòng yêu mến quê hương, cũng như đau đáu trước những nơi từng gắn với một thời kỳ sống đạo nhiệt thành của giáo phận trên dải đất miền Trung. Cha ngậm ngùi: “Để truyền giáo, ươm mầm, gầy dựng nên một xứ đạo là muôn vàn khó khăn, có khi mất cỡ vài chục năm. Có xứ rồi, công khó để phát triển, xây dựng cơ sở bền vững, lại cũng là một quá trình dài. Nên vì những lý do khách quan hay chủ quan nào đó mà phải xóa sổ thì đau lắm chứ, tiếc lắm chứ… Mà giáo phận Qui Nhơn có đến tận 20 nơi như vậy. Sao không thương, không nhớ được?”.
Ngồi vẽ thử đường đi đến tất cả 20 vùng đất, tôi nhận ra các địa danh trải rộng trong cả ba tỉnh là Bình Định, Phú Yên và Quảng Ngãi. Đi hết hành trình đó không phải là một việc đơn giản với một linh mục vừa đảm trách Quản lý Tòa Giám mục, vừa trông coi Trung tâm Thánh Thể giáo phận, rồi có một thời gian dài làm Giám đốc Caritas Qui Nhơn, như cha Đệ. Cha tiết lộ phải mất nhiều năm, sắp xếp chi li thời gian cho từng hành trình lên rừng - xuống biển, vào thôn làng - ra phố thị…, mới có thể lần ra đủ 20 dấu vết gốc rạ còn sót lại trên cánh đồng truyền giáo từng một thời trĩu hạt. Chưa hết, mỗi chuyến đi như vậy không chỉ đến cho biết rồi về, mà luôn như một cuộc điền dã, vừa nghe ngóng, quan sát; vừa tìm kiếm, gạn lọc; rồi ghi chép, đối chiếu lịch sử, sau đó viết lại làm tư liệu... Có lẽ giống như người làm báo chúng tôi, cha Gioan cũng đã không ít lần cảm thấy thất vọng khi đến nơi mà lại có quá ít thông tin, hoặc không còn dấu tích hay nhân chứng nào xác nhận một tiểu tiết cần kiểm tra. Và chắc hẳn cha cũng đã trải qua nhiều lần cảm thấy hạnh phúc khi có chuyến đi thu nhặt được ngồn ngộn các dữ liệu quý giá… Tôi hình dung bóng dáng vị linh mục tóc điểm “muối” nhiều hơn “tiêu” với chiếc xe máy đời cũ, một mình rong ruổi trên những cung đường dài, kiên nhẫn đi tìm những họ đạo từng có tên nhưng nay không còn có “mặt”, mà thấy vừa cảm phục, vừa kính trọng cái tình với Giáo hội của cha. Tôi thì nghĩ như vậy, nhưng hỏi thì cha chỉ cười khà khà, khiêm tốn nói “có gì đâu, khi nào đi cũng trong tâm thế khấp khởi hy vọng, và luôn khám phá ra nhiều điều chưa biết về nơi mình đang tới, nên vui quên mệt. Đi ăn cơm bụi, nước mang theo uống, oải thì ghé bóng mát đâu đó hút điếu thuốc là tỉnh người…”. Nghe hai chữ “tỉnh người”, tôi lại mường tượng hình ảnh vị linh mục ngoài lục tuần trầm ngâm thả trong làn khói thuốc cuộn bay trăm điều suy tư khi chưa làm được điều mình dự định; hoặc những lần nằm dài trên cát, trên đất, trên cỏ của các nền móng trong ngày cũ từng là nhà thờ, nhà xứ…, lắng nghe những thôi thúc trong đời sống dấn thân của người mục tử cần mẫn và trách nhiệm… Chắc là nhiều lần cha cũng đã cố nén tiếng thở dài vì đối diện với những hoang tàn, và cũng ít khi reo lên sung sướng khi tìm về và bắt gặp một vài dấu xưa…

Những nền móng cũ
Có thể liệt kê ra đây tên của 20 xứ đạo trong giáo phận Qui Nhơn (gồm 3 tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên - NV) từng tồn tại và bị xóa sổ do chiến tranh, dân rời đi, nhà thờ bị sập hoặc bỏ hoang rồi mục nát. Miền Quảng Ngãi có các xứ đạo Trung Tín, Cù Và, Trà Câu, Tân Lộc, Phú Vang. Miền Bình Định có Gia Hựu, Đồng Quả, Đồng Dài, Hội Đức, Nước Nhỉ, Nhà Đá, Đại An, Lạc Điền, Xóm Chuối. Và miền Phú Yên có Cây Da, Phú Điền, Phú Cốc, Bến Buôn, Hoa Vông, Quán Cau. Quả thực, nhiều cái tên trong số này quá đỗi thân quen. Vì quen nên không thể không hối tiếc ! Riêng cá nhân tôi nhớ nhiều đến Nhà Đá bởi đây là một điểm từng ghé đến vài lần. Di tích nay còn lại phần khung sườn nhà thờ xưa, với những đường nét xây dựng cổ điển. Nhà thờ Nhà Đá còn có tên gọi khác là Truông Dốc, một xứ đạo đón nhận Tin Mừng từ giữa thế kỷ 18 (xin xem thêm bài Nhà thờ Nhà Đá và những chuyện chưa kể - CGvDT số đặc biệt Xuân 2024). Hay Gia Hựu là quê nhà của cha Gioakim Đặng Đức Tuấn - một linh mục được quan yêu dân chuộng, một danh nhân văn hóa. Gia Hựu cũng từng là một xứ lớn đông giáo dân nhưng nay đã đi hết, chỉ còn vài nóc gia Công giáo, dù núi Đức Mẹ, lăng Tử đạo hiện vẫn còn sừng sững đứng đó. Hoặc giáo xứ Nước Nhỉ - nơi hiện có phần mộ cha Gioakim Đặng Đức Tuấn. Nước Nhỉ là xứ cha Tuấn được bổ nhiệm coi sóc năm 1865 và là nhiệm sở sau cùng của ngài. Biến động thời cuộc, chiến tranh và nhiều đợt di dân đã dần thay đổi các dấu tích thuộc về Nước Nhỉ, nhà thờ cũng không còn, dân ly tán… Tuy nhiên, may mắn là hiện đã có hơn 100 tín hữu trở về, và họ đang dùng khuôn viên khu mộ cha Tuấn làm nơi kinh nguyện, lễ lạy.
Ngoài một số “dấu xưa” đã được mục sở thị như vừa kể, thì những cái tên chỉ mới nghe qua sách vở, tư liệu, nhưng được biết cũng đều từng có thời kỳ vàng son trong sinh hoạt sống đạo. Tất cả đã và đang nằm trong sự đau đáu của giáo phận Qui Nhơn, mong chờ sớm khôi phục lại những giáo xứ đã đi vào lịch sử, để tìm lại nguồn mạch “hồi sinh”. Rất mừng và tràn trề hy vọng vì theo cha Đệ, hiện trong số 20 mô hình chúng tôi nhắc ở đầu bài, có thể bỏ bớt 4, vì đã có 4 nơi được tái lập, đó là Đại An, Cù Và, Trà Câu và Thác Đá.
Đại An đón nhận Tin Mừng khoảng năm 1835-1836. Theo báo cáo của Đức cha Van Camelbecke Hân về giáo phận Đông Đàng Trong năm 1890, Đại An từng rất sôi động khi có 1.344 Kitô hữu. Năm 1893, chủng viện thứ hai trong giáo phận được xây dựng tại Đại An, vì chủng viện Làng Sông không đủ chỗ cho số chủng sinh; và hoàn tất năm 1894, dưới sự điều hành của cha Panis Ngãi. Sau khi chủng viện được thành lập, một vài cơ sở khác của Nhà Chung cũng lần lượt được thành lập tại khu đất liền kề chủng viện Đại An như Trường thầy giảng (1897); Nhà hưu dưỡng các linh mục Việt Nam (1909); Phòng thuốc, Phước viện Mến Thánh Giá... Từ năm 1903, Đức cha Damien Grangeon Mẫn quyết định Làng Sông là Tiểu chủng viện dành cho các chú, còn Đại An là Đại chủng viện dành cho các thầy. Trường đào tạo các thầy giảng lúc này vẫn được gắn liền với Đại chủng viện Đại An. Dù từng lớn mạnh là thế nhưng sau nhiều biến động lịch sử, Đại An có thời gian “vườn không nhà trống”. Sau nhiều nỗ lực chăm sóc số giáo dân còn lại, tới năm 2015, Đại An được công nhận là giáo họ biệt lập. Đến tháng 7 năm 2016, giáo xứ Đại An chính thức tái lập.
Thác Đá Hạ cũng có hành trình tái lập lại tương tự như Đại An, dù cũng từng là một xứ đạo lâu đời. Xứ này được tái lập chính thức vào tháng 8 năm 2017. Ngược dòng thời gian, tính đến năm 1850, phía Bắc Bình Định có 29 giáo điểm, được chia thành 2 xứ: Bồng Sơn miền biển có 14 giáo điểm, Gia Hựu là trụ sở. Bồng Sơn miền núi có 15 giáo điểm gồm Đồng Hâu Đông, Đồng Hâu Tây, Đồng Đỗ, Ngãi Điền, Đồng Quả Đông, Đồng Quả Tây, Đồng Quả Nam, Đồng Quả Bắc, Đồng Quả Hạ, Truông Ổi, Đồng Dài, Đại Bình, Thác Đá, Bình Phú, Tây Phú, trong đó Thác Đá là trụ sở của xứ này. Trên đường ẩn trú việc bách hại đạo, Thánh Giám mục Stêphanô Cuénot Thể năm 1856 từng ở lại Thác Đá trọn một tuần lễ. Trước năm 1885, địa sở Thác Đá có 400 giáo dân, có Phước viện Mến Thánh Giá và Cô nhi viện. Lúc bấy giờ, trụ sở của địa sở Thác Đá là Thác Đá Hạ hiện nay (ngày trước, Thác Đá được chia thành Thác Đá Thượng và Thác Đá Hạ. Thác Đá Thượng nay là một giáo họ thuộc giáo xứ Đại Bình). Trong đêm ngày 3 rạng sáng ngày 4 tháng 8 năm 1885, cha François-Xavier Barrat Chung, cha sở Thác Đá và cha Mão (phụ tá), các nữ tu, các em cô nhi và một số giáo dân bị Văn Thân thiêu sống tại nhà thờ Thác Đá Hạ. Tại các sở họ khác, cuộc thảm sát xảy ra vào ngày 4 và 5 tháng 8, tổng cộng trên 1.800 giáo dân bị tàn sát. Số giáo dân sống sót rất ít. Sau năm 1887, cha François Geffroy Bửu, cha sở Gia Hựu phụ trách chung cả vùng Bắc Bình Định, có thêm các cha phụ tá ở tại Thác Đá, Đồng Quả và Đồng Dài. Với sự cộng tác của cha Eugène Durand Lộc, cha Geffroy đã tổ chức quy tập hài cốt các tín hữu vùng Bắc Bình Định bị Văn Thân sát hại. Số hài cốt này đã được chôn cất tại bốn nhà mồ: Gia Hựu, Đồng Quả, Thác Đá Thượng và Nước Nhỉ. Ngày nay, nhà mồ tại Thác Đá vẫn còn nguyên vẹn phía trước nhà thờ Thác Đá Thượng, nhà mồGia Hựu còn lại một phần.
Cù Và cũng từng là một xứ kỳ cựu vùng Quảng Ngãi, đón nhận Tin Mừng từ trước năm 1747. Trung tâm sinh hoạt tôn giáo của giáo xứ trước năm 1967 thuộc thôn Cù Và, xã Tịnh Giang, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Quần thể trung tâm này có nhà thờ, nhà xứ, Phước viện, Cô nhi viện, trường học. Trong chiến tranh, toàn bộ cơ sở vật chất đã bị hoang phế do bom đạn tàn phá, giáo dân bỏ đi. Sau nhiều thăng trầm, giáo xứ Cù Và được tái lập tháng 12 năm 2021 với 143 gia đình, 440 giáo dân, phân bố trong 10 giáo họ.
Cùng thuộc miền Quảng Ngãi, xứ Trà Câu cũng đã tái lập nhưng hiện chỉ là một giáo họ thuộc xứ Bàu Gốc…
*
Trở lại với câu chuyện những ngôi nhà mô hình trong Tòa Giám mục Qui Nhơn. Đây vừa như một sự nhắc nhớ về sự hiện diện một thời của một phần thân thể giáo phận, vừa như thể hiện niềm khát vọng về việc hồi sinh những cái tên đã mất, những xứ đạo đã bị phai lạt do sự tàn nhẫn của thời gian và ngoại cảnh. Hai chữ “hồi sinh” không chỉ hiểu ở sự hiện hữu bằng xây dựng nên từ gạch vữa, mà còn trong tâm khảm những người con vùng đất này. Quả là một ý tưởng và cách làm hay, mang lại nhiều xúc cảm.
Minh Hải
Bình luận