Quá trình hình thành và cơ cấu nhân sự của Giáo hội địa phươngtừ năm 1659 đến nay
Từ năm 1659 đến 1975
Công cuộc truyền giáo, phát triển đạo Công giáo ở Việt Nam buổi đầu thuộc về các thừa sai dòng Đa Minh, dòng Phanxicô, dòng Tên, từ nửa cuối thế kỷ XVII là Hội Thừa sai Paris (MEP). Sau khoảng hơn 100 năm của công cuộc truyền giáo, khi có được một số lượng tín hữu, đặc biệt là việc ra đời nhiều xứ, họ đạo, ngày 9.9.1659, Đức Giáo Hoàng Alexander VII ban Đoản sắc “Super cathedram” thiết lập hai địa phận Tông tòa Đàng Trong và Đàng Ngoài. Đức Giám mục Pallu phụ trách địa phận Tông tòa Đàng Ngoài, gồm khu vực chúa Trịnh và 4 tỉnh nam Trung Hoa; Đức Giám mục Lambert phụ trách địa phận Tông tòa Đàng Trong gồm khu vực chúa Nguyễn, Cao Miên và Thái Lan.
Cần thiết lưu ý, Công giáo ban đầu chưa có tổ chức địa phận. Chúa Giêsu chỉ trao cho thánh Phêrô làm thủ lĩnh các tông đồ và cai quản Giáo hội. Dần dần Công giáo phát triển, một mình thánh Phêrô hoặc những đấng kế vị là các giáo hoàng không quán xuyến hết. Từ đó chức vụ giám mục mới được thiết lập do thẩm quyền của các tông đồ. Vì chỉ khi nào có giám mục thì địa phận mới có lý do để thành lập.
Địa phận có những ý nghĩa khác nhau tùy theo sự phát triển cùng sự quy định của Đức Giáo Hoàng.
Địa phận phủ doãn Tông tòa: được quản trị bởi một vị phủ doãn Tông tòa, thường thì loại địa phận này không có chức giám mục. Do đó, địa phận được coi là bước đầu trong việc tổ chức hàng giáo phẩm.
Địa phận đại diện Tông tòa (đại diện Tông tòa được hiểu theo hai nghĩa: đại diện Giáo Hoàng hoặc đại diện Tòa thánh Vatican) được quản trị bởi một vị đại diện Tông tòa thay mặt Giáo Hoàng quản trị địa phận. Loại này được thiết lập ở những miền truyền giáo chưa có hàng giáo phẩm hoặc hàng giáo phẩm được tổ chức chưa hoàn bị. Đây được coi là bước tiến thứ hai trong việc tổ chức hàng giáo phẩm.
Việc Tòa thánh Roma thiết lập hai giáo phận Tông tòa lấy tên là Đàng Trong và Đàng Ngoài là dựa vào việc phân chia địa giới Đàng Trong và Đàng Ngoài của các bên Trịnh - Nguyễn đương thời, lấy sông Gianh (Quảng Bình) làm giới tuyến. Trở ra phía Bắc là Đàng Ngoài, vào phía Nam là Đàng Trong.
Sự phát triển của các địa phận Công giáo về hình thức tương tự như giáo xứ, từ địa phận “mẹ” tách ra thành địa phận “con” rồi các địa phận tiếp theo.
Nhìn vào sơ đồ ta thấy, giáo phận Thái Bình năm 1936 được tách ra từ giáo phận Bùi Chu là giáo phận có tuổi đời trẻ nhất. Lạng Sơn thời điểm năm 1913 là Phủ doãn Tông tòa. Mười địa phận trên đến năm 1960 thuộc giáo tỉnh Hà Nội và tồn tại cho đến hiện nay. Năm 2018, Tòa thánh La Mã thiết lập một giáo phận mới - giáo phận Hà Tĩnh, tách ra từ giáo phận Vinh. Đây là giáo phận thứ 27 của Công giáo ở Việt Nam và là giáo phận có tuổi đời trẻ nhất đến thời điểm này.
Các địa phận tách ra từ địa phận Tông tòa Đàng Trong tính đến thời điểm năm 1954 ít hơn so với các địa phận tách ra từ địa phận Tông tòa Đàng Ngoài.
Các địa phận được tách ra từ địa phận Tông tòa Đàng Trong
Như phần trên đề cập, đến thời điểm năm 1954 ở miền Bắc có 10 địa phận và tồn tại cho đến hiện nay. Ở miên Nam cho đến thời điểm năm 1960 có thêm các địa phận Cần Thơ (1955), Nha Trang (1957), Mỹ Tho (1960) Đà Lạt (1960), Long Xuyên (1960), Đà Nẵng (1963) Xuân Lộc (1966), Phú Cường (1966), Ban Mê Thuột (1967), Phan Thiết (1975).
Đến thời điểm năm 1967, ở miền Nam có 14 địa phận, các địa phận này tồn tại cho đến hiện nay. Đến năm 1975 có thêm giáo phận Phan Thiết tách ra từ giáo phận Nha Trang, đưa các giáo phận miền Nam đến năm 1975 là 15. Năm 2005, Tòa thánh La Mã thiết lập giáo phận Bà Rịa, tách ra từ giáo phận Xuân Lộc, trở thành giáo phận thứ 26 của Công giáo ở Việt Nam tính cho đến thời điểm lúc bấy giờ.
Nhìn vào sơ đồ, ta thấy, năm 1960 ở miền Nam có tới 3 giáo phận được thành lập mới (Mỹ Tho, Đà Lạt, Long Xuyên).
(còn tiếp)
PGS.TS Nguyễn Hồng Dương
Bình luận