Tổ chức dòng tu Công giáo ở việt nam từ buổi đầu đến nay
Thời kỳ từ buổi đầu đến năm 1954
Dòng La San
Dòng Anh Em Trường Kitô quen gọi là dòng Sư huynh La San, được thành lập tại Reims (Pháp) vào năm 1680, do linh mục người Pháp tên là Jean Baptiste De La Salle.
Dòng đã tới Việt Nam từ năm 1866. Sau ít năm vắng mặt do chính sách chống các dòng tu của Đệ tam Cộng hòa Pháp, dòng đã trở lại Sài Gòn năm 1890.
Bổn mạng: Tại Việt Nam ngày 15.5. Lịch Phụng vụ của Giáo hội kính ngày 7.4.
Châm ngôn: Dấu chỉ Đức Tin.
Hoạt động chủ yếu của dòng thuộc phạm vi giáo dục nhân bản và Kitô, đặc biệt bằng trường học là phương tiện ưu chọn.
Trước 1975, tại miền Nam Việt Nam, các tu sĩ La San hoạt động trong các trường mang tên chung là trường La San, cùng những sinh hoạt bên ngoài học đường. Ở Việt Nam có 1 tỉnh dòng. Bề trên dòng gọi là sư huynh Giám tỉnh.
Đan viện Thánh Mẫu Phước Sơn
Đan viện Thánh Mẫu Phước Sơn được thành lập ngày 15.8.1918 tại Phước Sơn, Quảng Trị, do linh mục Henri Denis Benoit Thuận, được sáp nhập vào dòng Xitô năm 1934, năm 1953 di chuyển vào Sài Gòn.
Bổn mạng: Lễ Đức Maria, Thánh Mẫu Thiên Chúa ngày 1.1.
Đan viện nguyên ủy thuộc quyền giáo phận, sau đó Sắc chỉ của Thánh bộ Tu sĩ ngày 24.5.1934 được sáp nhập vào dòng Xitô thế giới.
Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam
Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam xuất phát từ đan viện Phước Sơn. Năm 1936, tu viện được thiết lập tại Châu Sơn, Nho Quan, Ninh Bình, giáo phận Phát Diệm.
Ngày 23.10.1950, thêm một nhà khác được thiết lập tại miền Nam, tức đan viện Khiết Tâm Phước Lý, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.
Bổn mạng: Lễ Thánh Gia Thất.
Châm ngôn: cầu nguyện và lao động.
Mục đích: Giúp các tu sĩ thánh hóa bản thân theo gương gia đình Nazareth trong cầu nguyện và hy sinh, hầu góp phần vào việc cứu rỗi các linh hồn.
Hoạt động: Thánh hóa đời sống âm thầm trong cầu nguyện và lao động để góp phần vào việc cứu rỗi anh chị em chưa tin Chúa.
Cơ sở của dòng là các đan viện. Các đan viện ở Việt Nam hợp trong một hội dòng, đứng đầu là hội trưởng gọi là viện phụ hội trưởng.
Dòng Chúa Cứu Thế
Dòng thành lập ngày 9.11.1732 tại Scala, bởi thánh Alphonso Maria Ligori cùng một số người bạn, ban đầu tên dòng là “Chúa Cứu Chuộc”, năm 1749 đổi là Chúa Cứu Thế; chuyên lo rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó.
Bổn mạng: Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, ngày 8.12.
Châm ngôn: ơn cứu chuộc nơi Người chan chứa.
Mục đích, tôn chỉ: Noi gương Chúa Giêsu cứu thế, rao giảng Lời Chúa cho người nghèo khó như chính lời Ngài đã tuyên bố: “Người đã sai tôi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó” (Lc 4,8).
Hoạt động: Truyền giáo; Giảng tĩnh tâm; Mục vụ giáo xứ; Truyền thông lòng sùng kính Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp; Truyền thông xã hội; Các lớp cầu nguyện; Mục vụ dành cho những người bị bỏ rơi, bệnh nhân phong, AIDS...
Dòng được mời sang Việt Nam từ năm 1927, tại Thái Hà ấp (nay thuộc quận Đống Đa, Hà Nội).
Đứng đầu dòng là Bề trên Tổng quyền. Đứng đầu tỉnh dòng là Giám tỉnh. Tu sĩ sống trong các tu viện.
Dòng Phanxicô
Danh xưng chính thức là dòng Anh Em Hèn Mọn hay còn gọi là dòng Anh Em Phan Sinh do thánh Phanxicô Assisi (1181-1226) khởi xướng khoảng năm 1209 tại thành phố Assisi nước Ý. Lý tưởng sống của thánh Phanxicô Assisi là noi gương Đức Giêsu: sống khó nghèo, khiêm hạ, yêu thương phục vụ mọi người, đặc biệt những người nghèo khổ, yêu quý thiên nhiên.
Đại gia đình Phan Sinh gồm có: Dòng nhất, Dòng nhì, Dòng ba.
Bổn mạng: lễ thánh Phanxicô Assisi, ngày 4.10.
Hoạt động: Tham gia phục vụ Giáo hội và xã hội trong mọi lĩnh vực mục vụ giáo xứ, tông đồ xã hội, giáo dục, chăm lo người bị bệnh phong, các bệnh nhân, đồng bào dân tộc và ưu tiên chọn lựa người nghèo.
Đứng đầu tỉnh dòng là bề trên Giám tỉnh.
Năm 1969, dòng trở thành hạt dòng độc lập, không còn là một chi tỉnh phụ thuộc tỉnh dòng Paris như trước kia.
Năm 1984, hạt dòng Phan Sinh tại Việt Nam được nâng lên thành tỉnh dòng.
Tu đoàn linh mục Xuân Bích
Nguồn gốc Hội Saint - Sulpice (tiếng Việt phiên âm là Xuân Bích) gắn liền với công cuộc tông đồ của linh mục Jean Jacques Oliver, người Pháp (1608-1657), người dấn thân vào công cuộc đào tạo linh mục tương lai. Giáo xứ Saint - Sulpice được linh mục Oliver chọn làm thí điểm cho công cuộc đào tạo linh mục và lấy tên giáo xứ đặt cho hiệp hội.
Tu đoàn đến Việt Nam đầu thập niên 1930 (1929-1933), mở chủng viện Xuân Bích ở Liễu Giai (nay thuộc quận Ba Đình - Hà Nội). Năm 1954, tu đoàn di cư vào Nam.
Đặc tính: Đây là hội linh mục triều, có đời sống chung. Các linh mục Xuân Bích sống chung với nhau, dựa vào tình bác ái linh mục và quyết tâm của mỗi người dâng hiến cuộc đời cho việc đào tạo các linh mục tương lai.
Bổn mạng: Đức Mẹ Dâng Mình, ngày 21.11.
Châm ngôn: “Sống tuyệt vời cho Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô”.
Mục đích: Huấn luyện các linh mục tương lai ở Đại Chủng viện.
Dòng Biển Đức
Dòng Biển Đức do thánh Bênêđictô (Biển Đức) sáng lập năm 520, tại Subiaco, Ý. Về tổ chức, mỗi tu hội có các tỉnh dòng, mỗi tỉnh dòng lại có các đan viện. Đứng đầu là Bề trên Tổng quyền, đứng đầu tu hội là Đan phụ hoặc Đan trưởng.
Châm ngôn: cầu nguyện và lao động.
Hoạt động: Cử hành kinh Phụng vụ; cầu nguyện cá nhân, và đọc sách thiêng liêng; Lao động trí óc và chân tay; Tiếp đón khách tĩnh tâm.
Tại Việt Nam, ngày 10.11.1936, linh mục Maur Massé, đan sĩ thuộc đan viện La Pierre Qui Vivre, Pháp, lập đan viện đầu tiên tại Đà Lạt, sau thành trụ sở cho đến năm 1954.
Ngày 10.6.1940, hai đan sĩ đan viện La Pierre Qui Vivre là linh mục Dom Romain Guillaume và Dom Corentin thành lập đan viện Thiên An, Huế. Sau đó, các đan sĩ đan viện Thiên An tiếp tục thành lập thêm 3 đan viện khác. Tất cả đều thuộc tỉnh dòng Pháp.
Các đan viện Biển Đức tại Việt Nam:
- Đan viện Thiên An, thành lập ngày 10.6.1940.
- Đan viện Thiên Hòa, thành lập ngày 8.12.1962 tại huyện Krông Păk (tỉnh Đắc Lắc), do các đan sĩ đan viện Thiên An.
- Đan viện Thiên Bình, thành lập ngày 11.6.1970 tại Thiên Bình, Tam Phước, Long Thành, Đồng Nai.
- Đan viện Thiên Phước, thành lập ngày 13.5.1972, tại Tam Hải, Tam Bình, Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh.
Dòng Tiểu đệ Chúa Giêsu
Dòng lập năm 1933 bởi linh mục René Voillaume, mục đích sống theo tinh thần của tu sĩ Charles de Foucauld, người theo chí hướng dâng trọn đời cho Đức Giêsu và những người nghèo bị bỏ rơi, nhưng đã chết ở sa mạc Sahara. Dòng hiện diện dưới hình thức những Nhà Huynh Đệ, có mặt ở Việt Nam vào năm 1954. Năm 1968 trở thành dòng Giáo hoàng.
Bổn mạng: Lễ Chúa Giáng sinh, ngày 25.12.
Châm ngôn, mục đích: Bắt chước Chúa Giêsu ở Nazareth.
Tu sĩ dòng sống với nhau thành những cộng đoàn nhỏ là Nhà Huynh đệ.
Dòng Đồng Công
Tên gọi đầy đủ: dòng Đức Mẹ Đồng Công Cứu Chuộc, thành lập theo Giáo luật ngày 2.2.1953 tại xứ Liên Thủy, giáo phận Bùi Chu. Vị sáng lập dòng là linh mục Đa Minh Maria Trần Đình Thủ.
Châm ngôn: “Không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ” (Mt 20,28).
Mục đích: Đào tạo các linh mục, tu sĩ thánh thiện phục vụ công cuộc truyền giáo và Phúc Âm hóa dân tộc.
Hoạt động: Chủ yếu theo mục tiêu truyền giáo.
Tổ chức: Nhà mẹ ở Tam Phú, Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh và một cơ sở tại giáo xứ Giang Điền, giáo phận Xuân Lộc.
Ngoài ra còn là các dòng Nam tu khác như:
Dòng Thánh Tâm Huế lập ngày 9.10.1925 tại Huế.
Dòng Ngôi Lời - Giuse lập năm 1921 tại giáo phận Quy Nhơn.
Tu hội Chúa Giêsu do linh mục Gioan Baotixita Maria Trần Ngũ Nhạc lập tại Tam Châu, Phát Diệm, năm 1950.
Tu đoàn Tông đồ Nhập thể - Tận hiến - Truyền giáo do linh mục Micae Maria Nguyễn Khắc Tước, tức Việt Anh thành lập ngày 2.2.1949, tại giáo phận Thái Bình...
(còn tiếp)
PGS.TS Nguyễn Hồng Dương
Bình luận