CÔNG GIÁO VỚI VĂN HÓA VIỆT NAM
Công giáo với văn hóa Việt Nam - những biểu hiện của sự xung đột
…
Thư chung thứ hai
Thư chung thứ hai có tựa đề: Về các việc dối trá. Trước khi đi vào những vấn đề cụ thể, Thư chung đề cập đến tín lý Công giáo: “Thoạt khi Đức Chúa Lời dựng nên loài người ta, thì đã in điều ấy trong lòng trí khôn mọi người (...) mà trong các điều răn Người truyền, thì thứ nhất buộc rằng: “Kính chuộng một Thiên Địa chân Chúa trên hết mọi sự”. Sau nữa Đức Chúa Giêsu khi giảng dạy thiên hạ cũng truyền bá điều ấy mà rằng: “Ớ dân tao, hãy lắng tai mà nghe: có một Đức Chúa Lời là Chúa Dêu mày thì mày hãy kính mến Đức Chúa Lời cho hết linh hồn, hết trí khôn và hết lòng hết sức, ấy là điều trước hết và trọng nhất trong các luật mày phải giữ”.
Trên cơ sở đó, Thư chung đi vào cắt nghĩa bốn điều: Một là những sự không nên thờ; Hai là những sự không nên làm về đàng phụng sự; Ba là những việc không nên làm về đàng hiếu sự; Bốn là những sự dối trá không nên tin, không nên kiêng. Dưới đây chúng tôi tóm tắt từng điều một.
Điều thứ nhất: Những việc không nên thờ
Theo đó là:
1- Thờ thần là thờ loại nọ, loài kia hay là người này, người khác đã chết, vì tin nó có sức phù hộ che chở kẻ cầu khẩn cùng nó.
2- Thờ Phật - Phật cũng có tên là Bụt là Thích Ca nữa, thì là người thế gian có cha mẹ, có vợ con (...). Nước Annam ta mắc phải sự thờ Phật, thờ Bụt, bởi vua nước Đại Minh xưa chiếm nước này đem sự dối trá vào cùng bắt dân sự lập chùa thờ Bụt thì mới thờ.
3- Thờ Khổng Tử: ông Khổng cũng là người thế gian như Bụt đã nói trên này (...). Mà bây giờ dù thần, dù Phật dù Khổng Tử thì cũng đã chết cả rồi, còn có quyền có thể cứu giúp phù hộ người ta làm sao? Hẳn thật ai tin nó thờ nó là dối trá và làm tôi ma quỷ chốc.
4- Thờ ông bà ông vải (...) ví bằng kẻ có đạo là kẻ đã biết sự khấn vái mà lạy cha mẹ khi đã chết là sự giả trá chẳng được ích gì, mà còn dám thông công những việc ấy, thì nào chẳng lỗi đạo kẻ làm con thảo ru?
Điều thứ hai: Những sự không được làm về đàng phụng sự
1- Tham gia xây dựng chùa miếu, đi mừng lúc khánh thành, sự cất nóc, ghé nón khi đi qua trước cửa đình, chùa cũng cấm vì đó là việc làm kính ma quỷ, Bụt thần.
2- Về sở đình làng: Nếu có hậu cung liền với đình đã để sắc thần và đồ thờ thì phải coi như chùa, miếu và không được làm như với chùa, miếu đã đề cập ở trên.
3- Được phép bán vật liệu cho người ngoại đạo xây đình, chùa nhưng không được chuyên chở đến tận nơi, vì là sự rối.
4- Kẻ có đạo được mua đình, chùa hay là ruộng của chúng vì sự mua bán này là không lành không dữ.
5- Người có đạo không được cho người ngoại đạo mượn đồ thờ, cờ quạt, khăn áo dùng trong việc tế tự nơi đình, chùa, miếu.
6- Khi người ngoại đạo mở hội tế tự thánh, kẻ có đạo không được đến đình, chùa xem chèo, nghe hát. Vì đó là sự rối.
7- Người có đạo nhận của biếu dịp việc làng kẻ ngoại đạo nếu là riêng tư, nhận để khỏi mất lòng và ăn trong nhà mình thì không có tội, còn khi dự việc làng theo ngôi thứ mà nhận thì mắc sự rối.
8- Không được ăn cỗ cúng, ngồi cùng mâm với kẻ ngoại đạo.
9- Về sự hạ điền, thượng điền, động thổ, kẻ có đạo không được theo ý kẻ ngoại đạo tin rối hay là cúng tế thần, ăn cỗ với kẻ ngoại. “Còn nguyên sự cứ ngày dân đã chỉ mà bắt đầu cày cấy, gặt hái thì chẳng có tội”.
10- Không được theo kẻ vô đạo thờ Khổng Tử như người có phù hộ cho thi cử, làm cỗ bàn thờ cúng... là điều dối trá.
11- Khi nhờ làng ngoại đạo về đất ở, lối đi, hay nơi buôn bán đến kỳ việc làng phải nộp tiền, trầu, rượu thì không có tội.
12- Không được làm việc cầu thần, đảo vũ, kỳ yên, v.v...
13- Khi làng đã gián tòng[1], nếu lý trưởng, kỳ mục là người có đạo thì không được tham gia hay nhờ người tham gia vào việc làm tờ trình quan được lĩnh sắc thần.
14- Những việc tôn kính vua như mừng lễ ngũ tuần, lục tuần thì được làm còn những việc tế tự phải tránh như các việc làm trong văn miếu, văn chỉ.
Điều thứ ba: Những việc không được làm về đàng hiếu sự
1. Về tang ma, Thư chung yêu cầu tuân giữ những điều dưới đây:
- Giúp người thân kẻ vô đạo chết mua đồ liệm, săng ván nhưng không được lạy xác, đơm cúng và những việc dối trá khác.
- Đáp lại nhà vô đạo trước giúp mình tang ma cho người thân mà cho mượn nồi, niêu, bát đĩa, liếp được coi như là nợ.
- Khi phải giúp đám ma người ngoại đạo là anh em, bà con thì được làm những việc không lành không dữ như nấu cơm dưới bếp, còn việc ở nơi hương án gần quan tài, ... phải lánh vì là nơi rối, việc rối.
- Kẻ có đạo phúng đám ma ngoại đạo thì không được đặt lên giường thờ, hương án mà phải vào nhà không có quan tài hay là giường thờ, mới chắc khỏi sự rối.
- Nếu nhà hiếu dọn cỗ thì phải ăn ở nhà khác, không ngồi với kẻ ngoại đạo nơi thờ cúng.
- Các nơi đã gián tòng, kẻ có đạo được làm đô tùy khiêng quan tài kẻ ngoại đạo, ngoài ra không được cầm, khiêng vật gì. Khi được mời ăn thì phải ngồi nhà khác.
- Kẻ có đạo phúng kẻ ngoại đạo không đem những đồ lễ người ta quen cúng.
- Kẻ ngoại đạo đến phúng kẻ có đạo không được cho họ để đồ lễ trước quan tài hay lạy xác. Những đồ lễ như vàng mã thì phải chối.
- Kẻ có đạo khi táng xác người nhà mình không được theo trong sách Gia lễ mà chỉ làm như đã dặn trong sách yên ủi kẻ liệt.
2. Về giỗ chạp: Cũng như tang ma, giỗ chạp được Thư chung quy định với những nội dung như:
- Nếu kẻ vô đạo phải gánh giỗ thì phải xin nhà trưởng tha hoặc quyết định bỏ hẳn.
- Nếu buộc phải đóng góp thì đưa tiền sau ngày giỗ để gia đình trưởng dùng tiền của mình mua đồ lễ.
- Không được đi ăn giỗ. Nếu đi thì ngồi nhà người khác, hoặc khi đã giỗ xong mới đến thăm.
- Nếu các chức dịch hàng tổng, hàng huyện có giỗ thì kẻ có đạo liệu ngồi riêng với nhau. Nếu ngồi chung với kẻ ngoại đạo thì phải ngồi ở nhà khác.
3. Về ngày tết nguyên đán, gồm có các nội dung:
- Kẻ có đạo tết kẻ ngoại đạo không được để đồ lễ lên bàn thờ.
- Ngày tết không được dọn án thư kiểu giường thờ, cùng mâm ngũ quả và những đồ thờ khác nhau như bên đời. Làm như vậy là mở dịp cho mình tin rối.
- Có thể làm kiểu bàn thờ bên đạo quen làm như sắm ảnh tượng câu rút, Đức Bà, các thánh, hợp nhau đọc kinh.
- Kẻ có đạo thể hiện cách kính cha mẹ tổ tiên bằng cách họp nhau ăn giỗ, tết thì nên đọc ít nhiều kinh. Khi đọc phải bưng cỗ ra nơi khác, xong mới đem ra ăn.
Điều thứ tư: Những sự dối trá không nên tin, không nên kiêng
Qua thực tế, Thư chung nêu những sự thường quen mở dịp cho bổn đạo mắc rốỉ, gồm:
Tin mồ mả đất cát hướng nhà. Tin khoa bói. Tin may rủi kiêng sớm mai.
Cuối cùng Thư chung quy định: “Từ này về sau sẽ đọc Thư này trong nhà thờ các họ mỗi năm ba lần, là tối ngày lễ các Thánh và khi Thầy cả về làm phúc.
Một vài nhận xét: Hai Thư chung đều nói đến sự dối mà tín hữu Công giáo (Thư chung gọi là kẻ có đạo) phải tránh và một số sự không lành, không dữ, tín hữu nhận biết để ứng xử cho hợp lý. Thư chung thứ nhất xoay quanh vấn đề thờ cúng tổ tiên (tang, ma, giỗ chạp). Trong khi Thư chung thứ hai những quy định về sự dối phong phú hơn. Có thể nói Thư chung này đề cập đến những vấn đề cơ bản mà Công giáo Việt Nam phải dối diện là thờ phật, thánh, thần (Nho - Phật - Đạo - Tam giáo) là với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và còn với những hình thức tín ngưỡng khác. Mục đích cuối cùng mà Thư chung cũng như Công giáo ở Việt Nam nhắm tới là “Kính chuộng một Thiên Địa Chân Chúa trên hết mọi sự”.
Những “sự dối” mà hai Thư chung đề cập sẽ còn thấy lặp lại ở một số Thư chung khác nhưng được làm rõ hơn, cụ thể hơn.
Với Giáo hội Công giáo ngoài Bộ Giáo luật, những văn kiện của Công đồng, của Đức Giáo Hoàng hoặc các Bộ của Vatican, Thư chung cũng có giá trị huấn quyền đối với một giáo phận, tổng giáo phận hay giáo hội một nước. Và như vậy những vấn đề Thư chung nêu ra hàng giáo sĩ và giáo dân đều phải thực hiện nghiêm túc. Trên thực tế cho thấy những quy định trên đều đi vào đời sống đạo của tín hữu và phải đợi đến Công đồng Vatican II (1962-1965) mới bắt đầu có hướng thay đổi. Để rồi hầu hết được giải tỏa bởi Thư chung 1980 của Hội đồng Giám mục Việt Nam.
PGS.TS Nguyễn Hồng Dương
1 Nghĩa là người gia nhập đạo Công giáo tách ra khỏi người lương thành nơi ở riêng.
Bình luận