CÔNG GIÁO VỚI VĂN HÓA VIỆT NAM
Công giáo với văn hóa Việt Nam - Những biểu hiện của sự hội nhập
Hội nhập văn hóa thể hiện qua một số nghi tục
Tục lệ đón Tết nguyên đán
Với người Việt, Tết nguyên đán là một Tết lớn. Trong Tết nguyên đán, nghi lễ tế giao thừa ở đình làng là một nghi lễ quan trọng. Đó là nghi lễ tế trời đất, cũng là nghi lễ tế Thành hoàng, cảm tạ trời đất, cảm tạ Thành hoàng ban cho dân làng một năm mưa thuận, gió hòa, mùa màng bội thu. Nghi lễ tế giao thừa vừa là nét đẹp sinh hoạt văn hóa cộng đồng, vừa là một hình thức tín ngưỡng lâu đời của người dân Việt. Đầu Xuân năm mới là dịp người Việt họp mặt con cháu trong gia đình, cúng bái tổ tiên, họ tộc. Trong ba ngày Tết theo quan niệm dân gian là: Mồng Một tết cha (bên nội), Mồng Hai tết mẹ (bên ngoại), Mồng Ba tết thầy (thầy dạy học).
Người Công giáo sinh hoạt nghi lễ tôn giáo theo Tây lịch, vả lại như đã đề cập, Thư chung trước đây của hàng giám mục cấm tín hữu tham dự các nghi lễ, phong tục truyền thống, cấm ăn của tế... nên về nguyên tắc họ không có nghi thức trong dịp Tết nguyên đán. Nhưng cùng với thời gian, người Công giáo Việt Nam có cách đón Tết nguyên đán riêng của họ. Trong ba ngày Tết thì: Mồng Một kính lạy Thiên Chúa Ba Ngôi, Mồng Hai cầu cho tổ tiên, ông bà cha mẹ; Mồng Ba cầu cho công ăn việc làm. Vào thời khắc giao thừa, nhiều xứ đạo rung chuông Tây hoặc đánh chuông Nam. Có một số làng Công giáo còn đánh trống. Sau lễ giao thừa giáo dân thường tập trung ở ‘‘nhà phòng” mừng tuổi linh mục. Mấy ngày Tết, linh mục xứ thường đi đến nhà tín hữu chúc tết họ. Trẻ em được linh mục mừng tuổi.
Ở một số giáo xứ thuộc giáo phận Thái Bình, dịp Tết nguyên đán tổ chức lễ tế giao thừa ở nhà thờ. Đội tế mô phỏng theo đội tế làng lương, có chủ tế, bồi tế, đông xướng, tây xướng, có chiêng, trông giữ nhịp. Lời văn tế là sự suy tôn Thiên Chúa Ba Ngôi; là lời nguyện thỉnh cầu cho Hội Thánh, Tổ quốc, giáo xứ. Một điểm khác biệt là Tết ở nhà thờ Công giáo có lời cầu nguyện của cộng đoàn. Hay nói theo “ngôn ngữ nhà đạo” là cộng đoàn tín hữu giáo xứ cùng hiệp lễ với ban tế.
Có những xứ đạo Mồng Một Tết, cũng có thể là chiều 30 Tết, con cháu các họ tộc tề tựu về nhà tộc trưởng gặp gỡ hàn huyên như nhắc nhở mọi người cùng họ tộc nhớ về nguồn cội.
Lễ cầu mùa, cầu bình an
Ngày 16.4.1872, trong một Thư chung gởi giáo phận Tây Đàng Ngoài, Đức Giám mục Bảo Lộc Phước (Paul François Puginier Phước) lập trong địa phận phép kiệu cầu được bình an và được mùa. Cuối thư, Giám mục Phước đã nêu:
1 - Từ nay mà đi, các xứ hằng năm phải kiệu cầu cho được bằng an và được mùa trong ngày lễ ông Thánh Máccô[1] và ba ngày trước lễ Đức Chúa Giêsu lên trời[2].
2 - Chính phép đi kiệu này thì ra ngoài đồng.
3 - Thầy cả bản xứ phải truyền cho bổn đạo dọn đường đi kiệu cho được rộng rãi bằng phẳng.[3]
![]() |
Hái lộc Lời Chúa đầu Xuân tại nhà thờ Chánh tòa Hà Nội |
Hằng năm đến tiết lễ, một thánh lễ được diễn ra ở nhà thờ Công giáo. Trong buổi lễ, giáo dân dâng một số hạt giống (có tính chất tượng trưng) như đậu, ngô đặt lên các bậc mõ ở cung thánh của nhà thờ để cầu Chúa ban cho mùa màng bội thu. Cuối thánh lễ, giáo xứ tổ chức đi kiệu từ nhà thờ xứ ra ngoài đồng, linh mục rảy nước phép xuống ruộng, cùng giáo dân cầu Chúa ban cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt... Tài liệu điền dã của chúng tôi cho thấy từ năm 1925 trở về trước ở xứ đạo Lưu Phương (Kim Sơn, Ninh Bình), ba họ đạo thuộc xứ, mỗi xứ họ đạo tổ chức đi kiệu một ngày. Các xứ đạo thuộc giáo phận Phát Diệm (Ninh Bình) từ năm 1945 về trước, năm nào cũng tổ chức đi kiệu cầu bằng an và được mùa. Vào những năm 1930, họ đạo Tân Đê (Lưu Phương - Kim Sơn - Ninh Bình) có sâu phá lúa, lễ cầu bằng an được tổ chức vào buổi tối. Giáo dân đốt đuốc, rước kiệu ra ngoài đồng. Mọi người cùng đọc kinh, cầu xin Đức Chúa Trời dẹp tan sâu bọ.
Lễ cầu mùa và cầu bình an nơi nhà thờ Công giáo là biến thể của lễ kỳ yên (cầu yên), một nghi lễ thường diễn ra ở đình làng (hoặc đền miếu) của người Việt. Nội dung của lễ này cầu trời ban phong đăng, hòa cốc, cũng có khi là đẩy lùi dịch bịnh. Ở những làng Công giáo ven biển như xứ Nhượng Bạn (Hà Tĩnh), lễ cầu mùa được gắn với lễ cầu ngư. Linh mục cùng với giáo dân sau thánh lễ ở nhà thờ xứ cùng nhau ra bãi biển. Linh mục làm phép ban phước lành trên thuyền bè, ngư cụ.
Cư dân theo Công giáo làm nghề đánh cá biển ở Phú Vang (Thừa Thiên - Huế) như An Bằng, Hà Thanh tham dự lễ cầu ngư cùng với lương dân.
Ở các xứ đạo thị xã, thành phố..., nơi mà giáo dân không làm nông nghiệp, nghi lễ cầu mùa được gọi là lễ thánh hóa công ăn việc làm.
Lễ thượng điền, hạ điền và lễ thường tân
Đó là những lễ nghi liên quan đến nông nghiệp, một hình thức vừa mang yếu tố văn hóa vừa mang yếu tố tín ngưỡng, cảm tạ thần đất, thần lúa theo một tâm thức “vạn vật hữu linh” của tín ngưỡng nguyên sơ của người Việt cổ.
Lễ hạ điền (nghi lễ xuống đồng) : Một ngày được chọn, xứ hoặc họ đạo tổ chức nghi lễ cấy cây mạ đầu tiên bắt đầu của một vụ sản xuất mới. Lễ này được ghi trong hương ước làng Mỹ Đình, Thái Bình, lập năm 1936, tại Điều 38 như sau: “Hằng năm cứ đến ngày 29 Juin (tháng 6), đồng dân tề tựu tại nhà thờ xem lễ cầu nguyện cho được mùa, rồi bắt đầu cấy, tục gọi là lễ hạ điền”.
Lễ thượng điền (nghi lễ lên đồng) : Nếu như nghi lễ hạ điền mở đầu cho một vụ gieo trồng mới thì nghi lễ thượng điền là nghi lễ kết thúc một mùa vụ. Do là nghi lễ kết thúc mùa vụ gieo trồng nên xứ đạo thường tổ chức ăn uống.
Tục lệ ấp Tôn Đạo, tổng Quy Hậu, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình, lập năm 1917, cho biết: “Cứ theo điều ước bản tổng, lấy ngày 15.7 làm kỳ dụng, lấy ngày 13 tháng ấy, theo như các nơi trong tổng, đem lợn ra chợ tổng mua bán để tiện cho lễ thượng điền..., còn ngôi thứ ăn uống trong làng đã có lệ cũ”.
Lễ thường tân (nghi lễ mừng cơm mới): Khi mùa màng thu hoạch xong, qua lễ thượng điền là đến lễ mừng cơm mới. Nếu như lễ hạ điền và thượng điền là nghi lễ do xứ họ đạo, làng Công giáo tổ chức thì nghi lễ thường tân ngoài việc tổ chức của xứ, họ đạo, làng Công giáo, còn là nghi lễ của toàn dân. Ngày này, giáo dân đem lúa mới đã xay giã thành gạo nấu cơm cho một bữa ăn tươi sau những tháng ngày nông tang vất vả. Tục lệ thôn Giáo Dân, xã Công Thủy, tổng Yên Ninh, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình (lập năm 1908) cho biết: “Một lệ, tháng 9 hằng năm vào tiết Thường kỳ, bản thôn lấy tiền ruộng công cao như cũ giao cho ba người nhận canh tác trong năm ba vụ, mỗi người nhận ba sào dùng xôi gà một bàn trên một vụ. Kỳ thanh khiết tăng tiền 3 quan, gà tăng giá một quan, rượu một bình, trầu cau 10 quả, nếu bất cẩn thì phạt tiền 6 mạch, ấy là lệ”. Hương ước làng Lục Thủy, huyện Xuân Trường, Nam Định, Điều 118 ghi: “Làng ta toàn tòng đạo Công giáo..., đầu năm ra có lệ Mồng Bốn khai trống... Lệ Đoan Ngọ, thường tân, chạp lễ”. Hương ước làng Phú Nhai, huyện Xuân Trường, Nam Định (lập 1940), Điều 19 quy định: “Làng ta có dự trong sổ công tiêu về các tiết lễ, v.v... lễ thường tân, Đoan Ngọ”.
(còn tiếp)
PGS.TS Nguyễn Hồng Dương
1 Lễ Thánh Máccô ngày 25.4.
2 Lễ không cố định vào một ngày cụ thể, được tính sau lễ Phục Sinh 40 ngày (vào một ngày trong tháng 5).
3 Sách thuật lại các Thư chung địa phận Tây Đàng Ngoài, in tại Kẻ Sở, 1908, tr.194.
Bình luận