CÔNG GIÁO VỚI VĂN HÓA VIỆT NAM
Công giáo với văn hóa Việt Nam - Những biểu hiện của sự hội nhập
Hội nhập văn hóa thể hiện qua một số nghi tục
Báo Công giáo và Dân tộc số 2395 đã đề cập đến những lễ nghi liên quan đến nông nghiệp như lễ hạ điền, lễ thượng điền và lễ thường tân là những sinh hoạt vừa mang yếu tố văn hóa vừa mang yếu tố tín ngưỡng cảm tạ thần đất, thần lúa theo một tâm thức “vạn vật hữu linh” của tín ngưỡng nguyên sơ của người Việt cổ.
Về những sinh hoạt này, Thư chung của Hội Thừa sai Paris có tựa đề Về các việc dối trá, nơi điều hai Những sự không được làm về đàng phụng sự, khoản 9 quy định: “Về sự hạ điền, thượng điền, động thổ, kẻ có đạo không được theo ý kẻ ngoại đạo tin rối”. Dù có những quy định từ phía giáo quyền, người dân ở xứ, họ đạo, làng Công giáo vùng đồng bằng Bắc Bộ đâu đó vẫn thi hành các nghi tục hạ điền, thượng điền, thường tân theo một tâm thức của cư dân nông nghiệp. Tất nhiên, việc thực hiện các nghi tục truyền thống được người Công giáo đưa vào đó nội dung Công giáo. Hoặc đó chỉ là việc thực hiện như một hình thức văn hóa mà ở đó không có biểu hiện yếu tố tâm linh. Ví dụ lễ thường tân (cúng cơm mới), người Việt không theo Công giáo thổi cơm gạo mới dâng lên tổ tiên, thần linh ăn mừng kết quả mùa vụ. Với người Công giáo cũng là cơm gạo mới nhưng chỉ là một bữa ăn tươi.
Lễ tiết Đoan Ngọ (5/5) được nhiều làng Công giáo vùng đồng bằng Bắc Bộ thực hiện nhưng lại mang nội dung mới. Thay vì đó là “tết giết sâu bọ” của người lương, người Công giáo lấy ngày này là ngày con cháu nội ngoại gặp mặt tết ông bà. Lễ vật là nông sản (đậu, gạo nếp, đường, cũng có khi là gà...) mang biếu ông bà. Ngày này những cô dâu, chú rể tổ chức lễ cưới trước đó có dịp nhận họ hàng. Sở dĩ tết Đoan Ngọ mang nội dung mới như vậy, phải chăng vì người Công giáo khi gia nhập đạo đã đoạn tuyệt với thờ cúng tổ tiên nên không có điều kiện gặp mặt anh em họ hàng. Mà với người Việt “giọt máu đào hơn ao nước lã”, huyết thống vừa có giá trị tâm linh vừa có giá trị văn hóa. Người cùng huyết thống tề tựu, sum họp là một đòi hỏi tự thân của con người.
Như vậy, người Công giáo Việt Nam ngoài việc giữ đạo qua tín lý Công giáo dù trước Công đồng Vatican II bị cấm đoán ngặt nghèo từ phía giáo quyền, với tâm thức tín ngưỡng và văn hóa truyền thống đâu đó ở xứ đạo này hay xứ đạo khác, tín hữu vẫn “trở lại” với những niềm tin vào nữ thần, vào các thánh, quay về với một số nghi tục truyền thống đáp ứng đời sống tâm linh đa phức của họ. Đời sống ấy với họ, Công giáo đã không thể đáp ứng. Những hình thức này mãi đến sau Công đồng Vatican II mới được công nhận. Đó là “lòng đạo đức bình dân”[1].
![]() |
Lễ Mùng Hai Tết - Kính nhớ Tổ tiên tại nghĩa trang giáo xứ Thánh Tâm, GP Ban Mê Thuột - ảnh: GP Ban Mê Thuột |
Hội nhập văn hóa thể hiện qua việc thờ cúng tổ tiên
Thờ cúng tổ tiên của người Việt là một trong những tín ngưỡng được các thừa sai quan tâm đầu tiên khi tiến hành truyền giáo ở Việt Nam. Với Công giáo, nếu tín hữu thực hiện tín ngưỡng này sẽ vi phạm hai điều quan trọng. Một là tín hữu chỉ được “Thờ kính Thiên Chúa trên hết mọi sự”. Hai là với tín hữu Công giáo tổ tiên của họ là Thiên Chúa tạo dựng. Chính Thiên Chúa tạo dựng ra con người nên Thiên Chúa là tổ tiên của loài người. Thư chung Nói về 36 sự rối nước Annam phần nào cho thấy thái độ dứt khoát của Công giáo ở Việt Nam vởi vấn đề thờ cúng tổ tiên. Vì vậy với người Việt Nam nào muốn gia nhập đạo Công giáo điều tiên quyết phải từ bỏ thờ cúng tổ tiên. Trong khi đó với người Việt thờ cúng tổ tiên không chỉ là một hình thức tín ngưỡng mà còn là Đạo Hiếu. Ai đó khước từ thờ cúng tổ tiên sẽ là kẻ bất hiếu, sẽ bị cộng đồng lên án thậm chí là nguyền rủa. Với người Công giáo Việt Nam dù nắm vững tín lý, dù chịu sự kiểm soát gắt gao của các giáo sĩ, nhưng họ vẫn có những cách ứng xử thể hiện sự hội nhập văn hóa trong lĩnh vực thờ cúng tổ tiên. Thể hiện như:
Quan niệm về cái chết: Cũng như người Việt, truyền thống người Công giáo quan niệm chết không phải là hết với tâm thức “sinh ký, tử quy” (sống gởi, thác về) nhưng là về Nhà Cha (về với Chúa) trên thiên đàng. Người Công giáo cũng quan niệm có thế giới thiêng dành cho những người sạch tội sau khi chết và hỏa ngục là nơi giam cầm kẻ lúc sống làm việc tội lỗi. Trong làng đạo lưu truyền câu ca: Thiên đường, địa ngục đôi quê/ Ai giỏi thì về, ai vụng thì sa. Tại nhiều xứ họ đạo lâu năm, trong nhà thờ ngoài chuông Tây phục vụ thánh lễ còn có chuông Nam phục vụ cho nghi lễ người qua đời[2]. Với người nam qua đời là ba hồi bảy tiếng, với người nữ là ba hồi chín tiếng, theo một quan niệm dân gian: Ba hồn bảy vía (đối với nam giới), ba hồn chín vía (đối với nữ giới).
Thực hiện nghi lễ: Con cháu người quá cố mặc áo dài xô trắng như nghi thức của người Việt. Người Công giáo một số nơi cũng có nghi thức tưởng niệm người qua đời như: 3 ngày, 49 ngày, 100 ngày, giỗ đầu (tiểu tường), giỗ hết (đại tường), tuy nhiên thay vì làm cỗ bàn, người Công giáo đọc kinh ở nhà. Vào ngày giỗ, thân chủ gặp linh mục xin lễ. Trước thánh lễ, linh mục phụ trách thánh lễ rao tên thánh người quá cố để cộng đoàn cùng cầu nguyện. Trước năm 1945, ở một số xứ, họ đạo những gia đình có điều kiện còn làm lễ chồng mồ trong nhà xứ. Đó là một ngôi mộ giả được đóng bằng gỗ, trên đó phủ vải đen, trên nền vải có hình thập giá màu trắng, xung quanh quan tài được thắp nến. Cộng đoàn cùng cầu nguyện cho linh hồn người quá cố.
Ở một số làng Công giáo, xứ, họ đạo vùng đồng bằng Bắc Bộ, tài liệu điền dã của chúng tôi cho thấy còn có tục gởi hậu. Đây là phong tục của người lương. Đối với những người không có con trai, để lo việc thờ cúng mình sau khi qua đời, người ta cúng vào chùa, đền tài sản (tiền, ruộng đất) để dân làng lo việc cũng giỗ hằng năm. Với người Công giáo cũng có việc làm này. Chẳng hạn như bia cúng hậu ở giáo xứ Phùng Khoang (Hà Nội), bia Hậu ký ở họ đạo Tiên Đôi Ngoại (Hải Phòng), Xuân Hòa (Hải Phòng). Ở xứ đạo Tử Nê (Lương Tài, Bắc Ninh) có cụ bà tên là Tình cúng hậu cho nhà thờ quả chuông chùa.
PGS.TS Nguyễn Hồng Dương
1 Xem Hội đồng Giám mục Việt Nam - Ủy ban Văn hóa: Hướng dẫn về làng đạo đức bình dân và phụng vụ - Nguyên tắc và định hướng. Lưu hành nội bộ, 2003, trang 9.
2 Chuông Tây là chuông bên trong có quả lắc khi muốn cho chuông phát ra tiếng kêu phải kéo cho chuông nghiêng để quả lắc nện vào thành chuông phía bên trong. Chuông Nam là loại chuông chùa, muốn cho chuông kêu dùng vồ để nện.
Bình luận