Công giáo với văn hóa Việt Nam từ sau Công đồng Vatican II đến năm 1975
Việt hóa đạo
…
Tháng 11.1970, Hội nghị Giám mục châu Á họp ở Manila (Philippines) với nội dung quan trọng cổ xúy cho “nền thần học địa phương”. Nhưng trước hết, Đại hội điểm lại một cách nghiêm túc: “Chúng tôi phải lấy làm tiếc và nhìn nhận rằng chúng tôi cũng đã thiếu sót. Chúng tôi đã không thể hiện một đời sống Kitô hữu và không làm cho Hội Thánh được nhập thể trong những đường lối mẫu mực của mỗi nền văn hóa riêng của chúng tôi và do đó đã làm cho Hội Thánh trở nên xa lạ trong quốc gia chúng tôi”.
![]() |
Người Công giáo Việt Nam luôn tỏ lòng tri ân với tiền nhân
|
Từ đó các Giám mục Á châu tại Manila đi đến quyết định: “Chúng tôi hứa sẽ phát huy một nền thần học địa phương và làm tất cả những gì chúng tôi có thể làm được, để đời sống sứ điệp của Tin Mừng được nhập thể hơn bao giờ hết vào các nền văn hóa phong phú và lâu đời của Á châu, có thể góp phần phát huy những gì thực sự nhân bản trong nền văn hóa đó” (Nghị quyết 13)[1].
Cùng với Công đồng Vatican II, Đại hội các Giám mục châu Á cổ xúy và tạo đà cho Việt hóa đạo. Các học giả Công giáo đề ra nhiệm vụ: “Phải nghiên cứu, học hỏi tư tưởng, văn hóa, những quan niệm triết lý, đạo đức cũng như nghệ thuật và phong tục địa phương”[2]. Còn nhiệm vụ của Giáo hội là: “Phải biết mặc lấy thân phận của một dân tộc không những có ý nghĩa là phải hiểu biết và nói được ngôn ngữ của họ, nhưng còn phải sống cuộc sống của họ”[3].
Những nội dung chủ yếu được đặt ra cho xu hướng Việt hóa đạo là:
Xây dựng một nền thần học Công giáo ở Việt Nam, của người Việt Nam, hòa nhập được với nền phong tục tập quán với nền văn hóa Việt Nam vốn có truyền thống lâu đời.
Cho phép giáo dân được lập bàn thờ tổ tiên, được tham gia các nghi lễ tín ngưỡng, tôn giáo ngoài Công giáo, được phép hôn phối với người ngoại đạo.
Dịch thuật lại Kinh Thánh, chú giải rõ ràng, soạn, cải tiến những nghi lễ cho phù hợp với nghi lễ truyền thống Việt Nam.
Đối với tu sĩ, nhất là nữ tu cần phải Việt hóa tên gọi, Việt hóa lối ăn mặc, cách sống sao cho “kịp đà sống dân tộc mình, lĩnh hội được cảm nghĩ, tư tưởng, nhu cầu của dân tộc mình và chỉ khi nào đạt đến như thế mới Việt hóa đạo được”[4].
Sau ngày đất nước thống nhất, Giáo hội Công giáo Việt Nam càng có điều kiện để Việt hóa đạo nhưng được thay bằng tên gọi “hội nhập văn hóa” với những nội dung mới.
![]() |
Văn kiện hướng dẫn việc tôn kính tổ tiên của HĐGMVN |
Vấn đề thờ cúng tổ tiên
Nếu như ngay từ thời gian đầu khi đạo Công giáo được rao truyền ở Việt Nam, vấn đề thờ cúng tổ tiên được đặt ra gay gắt và mang tính loại bỏ bởi tín lý nhất thần giáo, thì từ sau Công đồng Vatican II một trong vấn đề Công giáo ở Việt Nam quan tâm đầu tiên là thờ cúng tổ tiên. Do tình hình đất nước bị chia cắt làm hai miền, việc tiếp thu, vận dụng những tinh thần mà Công đồng Vatican II ban bố ở hai miền có sự khác nhau, nên nhìn nhận và ứng xử có sự khác nhau, ở miền Nam các giáo phận có điều kiện tiếp cận và vận dụng sớm hơn, cởi mở hơn các giáo phận ở miền Bắc.
Ngày 14.11.1974, các Đức Giám mục thuộc các giáo phận miền Nam ra thông báo quy định cho người Công giáo Việt Nam được tổ chức và tham dự các nghi lễ tôn kính ông bà tổ tiên theo phong tục Việt Nam sau đây:
1- Bàn thờ gia tiên để kính nhớ ông bà tổ tiên được đặt dưới bàn thờ Chúa trong gia đình, miễn là trên bàn thờ không bày biện điều gì mê tín dị đoan, như hồn bạch.
2- Việc đốt nhang hương, đèn nến trên bàn thờ gia tiên và vái lạy trước bàn thờ, giường thờ tổ tiên, là những cử chỉ thái độ hiếu thảo tôn kính, được phép làm.
3- Ngày giỗ cũng là ngày “kỵ nhật” được “cúng giỗ” trong gia đình theo phong tục địa phương miễn là loại bỏ những gì là dị đoan mê tín, như đốt vàng mã, và giảm thiểu cùng canh cải những lễ vật biểu dương đúng ý nghĩa thành kính biết ơn ông bà, như dâng hoa trái, hương đèn.
4 - Trong hôn lễ, dâu rể được làm “Lễ Tổ, Lễ Gia Tiên” trước bàn thờ, giường thờ tổ tiên, vì đó là nghi lễ tỏ lòng biết ơn, hiếu kính trình diện với ông bà.
5- Trong tang lễ được vái lạy trước thi hài người quá cố, đốt hương vái theo phong tục địa phương để tỏ lòng cung kính người đã khuất cũng như Giáo hội cho đốt nến, xông hương nghiêng mình trước thi hài người quá cố.
6- Được tham dự nghi lễ tôn kính vị thành hoàng quen gọi là phúc thần tại đình làng, để tỏ lòng cung kính biết ơn những vị mà theo lịch sử đã có công với dân tộc hoặc là ân nhân của dân làng, chứ không phải là mê tín như đối với các “yêu thần, tà thần”.
Với thông cáo trên, về cơ bản vấn đề tôn kính tổ tiên của người Công giáo ở Việt Nam được giải quyết.
Những hoạt động canh tân, hội nhập của Công giáo miền Nam cho đến năm 1975 mới chỉ đạt được những kết quả bước đầu. Con đường đi là gập ghềnh, khúc khuỷu trên cả hai lĩnh vực: học thuật và thực hành. Những Hiến chế, Sắc lệnh của Công đồng Vatican II đã quy định rõ ràng tưởng chừng như không có gì phải bàn cãi, nhưng khi triển khai thực hiện đã gặp phải sự băn khoăn, lúng túng từ hàng giáo phẩm, tu sĩ, đến giáo dân. Xin đơn cử một vài vấn đề như: Người Công giáo kết hôn với người ngoại đạo; Vấn đề người Công giáo tham dự những nghi lễ tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống, hội làng, hội chùa... Đó là những nội dung mà Công giáo Việt Nam sẽ giải quyết ở giai đoạn từ năm 1975 đến nay.
1 Tạp chí Nhà Chúa, số 20, tr. 36.
2 Tạp chí Chọn, số 4, tr. 14.
3 Thiện Cẩm, Hội Thánh hôm qua, hôm nay và ngày mai tại Việt Nam, Tạp chí Nhà Chúa, số 20, tr. 43.
4 Thân Văn Trường, Việt hóa đạo Việt Nam, Tạp chí Nhà Chúa, số 33, tr. 127.
PGS.TS Nguyễn Hồng Dương
Bình luận