Quá trình hình thành giáo xứ, giáo họ của Công giáo ở miền Bắc từ buổi đầu đến năm 1954
Do tính đặc thù về quá trình hình thành và tổ chức giáo xứ, giáo họ (xứ, họ đạo) Công giáo ở miền Bắc, miền Nam, ở Tây Nguyên trong vùng đồng bào các dân tộc thiểu số có một số khác nhau về tên gọi, đặc biệt là về tổ chức giáo họ/ họ đạo, một hình thức tổ chức rất đặc thù của mỗi miền, nên khi nghiên cứu về tổ chức giáo xứ, giáo họ (xứ, họ đạo) chúng tôi tiếp cận theo 3 vùng miền khác nhau (miền Bắc, miền Nam và Tây Nguyên).
Dựa vào bản chỉ thị năm 1659 của Bộ Truyền giáo, Đức Giám mục Lambert qua hai Công đồng Juthia (1644) và Định Hiền (1670) bước đầu phân định ranh giới xứ, họ đạo. Nửa cuối thế kỷ XVII, xứ đạo là một vùng rộng lớn, thường gồm địa bàn tới một tỉnh. Cùng với quá trình truyền giáo, tín hữu ngày một nhiều, những xứ, họ đạo mới ra đời tách ra từ xứ Mẹ. Ví dụ xứ Quỳnh Lưu (Cẩm Trường) thuộc hạt Thuận Nghĩa, địa phận Vinh, ra đời thế kỷ XVIII. Đến thế kỷ XIX, có một xứ tách ra là xứ Yên Hòa, nhưng sang thế kỷ XX có 10 xứ tách ra cả thảy.
Ta có sơ đồ:
![]() |
Mặc dù đã có sự tách ra như vậy nhưng đến đầu thế kỷ XX, nhiều xứ đạo miền Bắc vẫn còn là một vùng rộng lớn với nhiều họ đạo, mỗi họ đạo thuộc về một làng, hoặc một xã, thậm chí hàng chục xã. Ví dụ xứ Báo Đáp (thuộc địa phận Bùi Chu), đầu thế kỷ XX, “xứ này gồm lại 35 họ thuộc về 24 xã”[1].
Quá trình hình thành xứ, họ đạo Công giáo ở miền Bắc thường trên cơ sở gián tòng lương giáo. Nghĩa là khi một làng, một xã có một số tín hữu Công giáo nhất định thì các thừa sai “gom” họ cư trú thành một khu riêng biệt, không cho ở lẫn với người không phải là tín hữu Công giáo quen gọi là người lương/lương dân. Một cộng đồng tín hữu được gom lại lập ra một giáp giáo. Giáp là hình thức tập hợp người dân ở làng quê vùng đồng bằng Bắc bộ thời kỳ phong kiến, chủ yếu phục vụ cho tín ngưỡng, tôn giáo. Công giáo khi truyền bá vào làng Việt đã sử dụng hình thức tập hợp cư dân này. Trong giáp giáo ban đầu lập ra nhà giáo để làm nơi dạy kinh bổn cho người mới gia nhập đạo, được gọi là tân tòng và dùng làm nơi cầu nguyện, trên cơ sở đó mà họ đạo ra đời. Ta có sơ đồ:
![]() |
Ở một vài địa phận như Phát Diệm (Ninh Bình), trước khi xứ đạo thành lập có bước chuyển tiếp giữa họ đạo lên xứ đạo với việc thành lập một tổ chức trung gian gọi là phiên đạo[2] (được xem là xứ xép Giáo luật 1983 gọi là chuẩn giáo xứ). Ta có sơ đồ:
![]() |
Tại các địa phận thuộc dòng Đa Minh quản lý, thay vì nhà giáo là họ giáo. Cũng như nhà giáo, họ giáo là bước đệm của việc thành lập họ đạo. Đây là nơi dành cho người xin theo đạo tập trung đến tìm hiểu đạo, học kinh bổn, chịu phép bí tích. Khi có một số lượng tín hữu cho phép và một số điều kiện khác, họ giáo được nâng thành họ đạo[3] và bước tiếp theo có thể là phiên đạo và xứ đạo. Ta có sơ đồ:
![]() |
Không phải họ đạo nào cũng được nâng lên thành xứ đạo. Những họ đạo như vậy gọi là họ đạo lẻ. Họ đạo được nâng lên thành xứ có những tên gọi như: Họ nhà xứ[4], họ đầu xứ hay họ đầu nhất. Đấy là cách gọi ở địa phận thuộc dòng Đa Minh, còn ở những địa phận thuộc Hội Thừa sai Paris thì gọi là họ trị sở.
Cách gọi họ đạo ở miền Bắc khác hẳn với cách gọi họ đạo ở Nam Bộ. Thường thì ở Nam Bộ gọi xứ đạo là họ đạo: họ đạo Cái Mơn = xứ đạo Cái Mơn, họ đạo cầu Kho = xứ đạo Cầu Kho.
Về tên gọi: Thông thường tên gọi họ đạo được nâng lên thành xứ đạo được lấy làm tên gọi của xứ đạo; thánh quan thầy của họ đạo này đồng thời cũng là thánh quan thầy của xứ. Họ đạo trị sở không có nhà thờ họ đạo riêng, nhà thờ xứ cũng có nghĩa là nhà thờ họ. Sử ký địa phận Trung cho biết: “Mỗi xứ gồm lại nhiều họ, mà họ nào cũng có nhà thờ riêng. Bằng về tên các xứ, thì xứ nào cũng lấy tên bởi họ đầu nhất, là nơi các thầy cả thường ở”[5].
Bắt đầu từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, một số họ đạo lớn được chia thành một vài đơn vị nhỏ gọi là dâu đạo (cũng có nơi viết là giâu)[6]. Dâu là tập hợp một số lượng tín hữu nhất định cư trú trong một vài ngõ (hoặc một vài giong đất), cũng có khi là một xóm.
Một hình thức tổ chức khác trong các xứ, họ đạo gọi là khu đạo. Do xứ đạo là một vùng rộng lớn với hàng chục họ đạo để tiện cho việc coi sóc tín hữu, các thừa sai dòng Đa Minh tập hợp một vài họ đạo ở gần nhau thuộc một xứ đạo lập khu đạo. Sử ký địa phận Trung viết: “Xứ nào to rộng lắm, thì thường được chia làm hai ba khu, mà mỗi khu thường có một thầy cả ở cho được dễ coi sóc”[7].
Như vậy, đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, có những hình thức tổ chức xứ họ đạo ở miền Bắc như sau: Một xứ đạo gồm nhiều họ đạo, mỗi họ đạo được chia thành một số dâu (giâu) đạo.
Tương đương với dâu đạo là xóm đạo.
Tương đương với họ đạo là giáp đạo, nhà giáo (hay họ giáo).
Tương đương với xứ đạo là phiên đạo.
Tổ chức họ đạo, khu vực đạo sau đó là dâu, giáp, tích, lân, xóm đạo là hình thức tổ chức phi quan phương, nên về tên gọi cũng như cơ cấu có thể thấy ở các giáo phận này mà không thấy ở các giáo phận khác, có thể thấy ở giáo phận thuộc Hội Thừa sai Paris quản lý nhưng không thấy ở giáo phận thuộc cai quản của dòng Đa Minh.
Tuy nhiên nhìn tổng thể, ta có sơ đồ:
![]() |
Mỗi xứ, họ đạo, dâu đạo (giáp, tích, lân, xóm đạo) có một số người được linh mục và tín hữu lựa chọn phụ giúp một số hoạt động phụng vụ và mục vụ. Những người này với xứ đạo được tập hợp trong một tổ chức được gọi là hội hàng phủ/ hay hàng xứ, với họ đạo là trùm chính và trùm tùy.
(còn tiếp)
PGS.TS Nguyễn Hồng Dương
1 Sử ký địa phận Trung, in tại Phú Nhai Đường 1916, tr. 141.
2 Xem: Nguyễn Hồng Dương, Làng Công giáo Lưu Phương (Ninh Bình) từ năm1829 đến năm 1945, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1997.
3 Sử ký địa phận Trung, Sđd, tr. 141.
4 Sử kí địa phận Trung, Sđd, tr. 130.
5 Sử kí địa phận Trung, Sđd, tr. 175.
6 Phải chăng chữ dâu (giâu) bắt nguồn từ chữ giong (ngõ).
7 Sử kí địa phận Trung, Sđd, tr. 179.
Bình luận