Thành viên lớn nhất của họ nhà mèo là một trong những chủng loài động vật có bề ngoài lôi cuốn và nguy hiểm bậc nhất của hành tinh chúng ta. Tuy nhiên, hiện chỉ còn 6 trong số 9 phân loài hổ còn sống sót và đều đang bị đe dọa tuyệt chủng. Tên khoa học của loài hổ là Panthera tigris. Sau đây là những phân loài còn tồn tại đến ngày nay:
1. Hổ Ðông Dương (Panthera tigris corbetti)
Còn được gọi là hổ Corbett, theo tên nhà bảo tồn người Anh Jim Corbett, phân loài này lâu nay tập trung ở Việt Nam, Campuchia, Lào, Myanmar và Thái Lan. Chúng hiện là loài nguy cấp theo Sách Ðỏ của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) và bị xem là tuyệt chủng ở Campuchia. Hổ Ðông Dương nhỏ hơn và lông sẫm màu hơn hổ Bengal, với các sọc ngắn và hẹp hơn. Chiều dài trung bình của con đực (từ đầu đến đuôi) là 3m, trọng lượng khoảng 180kg. Các chỉ số của con cái là 2,4m và 115kg.
Phân loài này chủ yếu sống trong những khu rừng xa xôi và đồi núi hẻo lánh, gây khó khăn cho những nhà khoa học muốn tiếp cận khu vực chúng sinh sống. Tạp chí National Geographic năm 2015 ước tính có thể chỉ còn khoảng 300 cá thể trong môi trường hoang dã. Các kết quả nghiên cứu gien di truyền cho thấy hổ Ðông Dương có lẽ là chủng loài tổ tiên của tất cả phân loài hổ.
![]() |
2. Hổ Amur (Panthera tigris altaica)
Hổ Amur (còn gọi là hổ Siberia) là phân loài hổ lớn nhất. Con đực trưởng thành có thể đạt kích thước 3,3m, trọng lượng tối đa 300kg. Con cái là 2,6m, 100 - 167kg. Bộ lông của loài này có màu cam nhạt hơn các phân loài khác, sọc nâu thay vì đen. Phần ngực và bụng trắng, cổ có vòng lông trắng. Trong môi trường hoang dã, hổ Amur tập trung thành hai quần thể chính ở vùng Viễn Ðông của Nga (hơn 450 cá thể) và ở khu vực từ biên giới Nga - Trung đến miền đông bắc Trung Quốc (khoảng 35 cá thể). Giới chức tỉnh Cát Lâm (Trung Quốc) và tỉnh Primorsky (Nga) đã ký kết thỏa thuận thiết lập khu vực bảo tồn loài hổ Amur tại biên giới chung. Chúng đang nằm trong danh sách nguy cấp của Sách Ðỏ IUCN.
Như nhiều loài bị đe dọa khác, hổ Amur được nuôi tại các sở thú trên khắp thế giới. Ðây là nỗ lực chung nhằm cải thiện số lượng loài hổ quý, đồng thời duy trì nguồn gien di truyền đảm bảo cho hổ Amur tiếp tục được nhân giống trong tương lai.
![]() |
3. Hổ Bengal (Panthera tigris tigris)
Hổ Bengal hiện chiếm khoảng 70% số cá thể hổ hiện tại, chúng sống ở Ấn Ðộ, Bangladesh, Nepal và Bhutan. Ấn Ðộ là nơi tập trung quần thể đông đảo nhất, ít nhất 2.900 cá thể. Trong khi đa số hổ Bengal có màu tương tự các phân loài khác, thỉnh thoảng lại xuất hiện một vài cá thể hổ “trắng” hiếm hoi. Nhưng hổ trắng chỉ có thể sống khi được nuôi vì màu lông trắng quá nổi bật sẽ làm chúng rất khó ẩn nấp để rình mồi. Môi trường sống ưa thích của loài hổ Bengal là trong những khu rừng rụng lá khô và ẩm ướt, vùng đồng cỏ, rừng ôn đới và ngập mặn. Dù phân loài này vẫn còn nhiều cá thể hơn những đồng loại khác, chúng vẫn đang nằm trong danh sách loài nguy cấp của IUCN.
![]() |
4. Hổ Hoa Nam (Panthera tigris amoyensis)
Ðược tìm thấy ở miền trung và miền đông Trung Quốc, hổ Hoa Nam thuộc danh sách loài cực kỳ nguy cấp của Sách Ðỏ. Theo Tổ chức Quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên (WWF), trên thực tế loài hổ này bị xem là đã tuyệt chủng trong tự nhiên. Hiện chỉ còn vài chục cá thể còn sót lại ở các sở thú của Trung Quốc. Trong khi đó, 40 năm trước, quần thể hổ Hoa Nam có hơn 4.000 con. Tuy nhiên, chúng bị xem là động vật gây hại và nguy hiểm, dẫn đến phong trào săn bắn hổ Hoa Nam nên số lượng đã giảm sút một cách nhanh chóng. Các cuộc khảo sát thực địa được thực hiện trong năm 1987 và 1990 tìm được dấu vết của một vài cá thể loài này tại vùng rừng núi hẻo lánh của các tỉnh Quảng Ðông, Hà Nam và Phúc Kiến. Tuy nhiên, các đoàn nghiên cứu không thực sự nhìn thấy con hổ nào.
![]() |
5. Hổ Mã Lai (Panthera tigris jacksoni)
Năm 2004, hổ Mã Lai được xác định là phân loài khác của hổ Ðông Dương. Bề ngoài hai phân loài rất giống nhau, nhưng kích thước của cá thể hổ Mã Lai nhỏ hơn. Hổ Mã Lai được tìm thấy ở những khu rừng lá rộng, ẩm ướt của vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới thuộc mũi Nam Thái Lan và bán đảo Malaysia. “Jacksoni” trong danh pháp khoa học của chúng được đặt theo tên ông Peter Jackson, từng đứng đầu nhóm phụ trách Phân bộ Mèo của IUCN. Tổ chức này xếp hổ Mã Lai vào nhóm nguy cấp.
![]() |
6. Hổ Sumatra (Panthera tigris sumatrae)
Chỉ được tìm thấy trên đảo Sumatra của Indonesia, hổ Sumatra đang là nhóm loài cực kỳ nguy cấp của IUCN. Hổ Sumatra có kích thước nhỏ nhất trong các phân loài. Con đực dài 2,4m, nặng khoảng 120kg. Con cái gần 2m, trọng lượng 90kg. Sọc của chúng màu đen, rộng, nằm sát nhau. Không giống như hổ Amur, chúng có sọc trên chân trước.
Ðây là loài hổ được bảo vệ theo luật pháp của Indonesia. Những kẻ săn trộm đối mặt án tù giam và nộp phạt. Tuy nhiên, bất chấp nỗ lực bảo tồn và chống nạn săn bắt trái phép, loài hổ này vẫn bị bắn hạ, phục vụ nhu cầu buôn lậu da và các bộ phận khác. Hổ Sumatra có bộ lông sậm nhất trong số các phân loài.
![]() |
ÐỊNH NGUYỄN
Bình luận