Bình luận của một bạn sau khi nghe bài “Giàn thiên lý đã xa” trên Youtube: “Nghe bài hát này tôi muốn theo đạo Công giáo quá!”.
Xin nghe thử vài câu:
“Tìm một miếng đất cho gã si tình
Giàn thiên lý đã xa mãi ngàn xa
Miếng đất cát hoang, miếng đất ngay bên giáo đường
Biển sẽ ru tiếng hát êm trùng dương”.
Hình ảnh ngôi giáo đường trên miếng đất cát ven biển trong bài dân ca “Scarborough Fair” xa xưa từ thời Trung cổ bên Anh Quốc đã để lại cảm xúc thật sâu đậm, dạt dào như sóng biển nơi người bạn trẻ ở miền đất Việt rất xa xôi.

Hội nhập
Theo nghĩa rộng trên nền tảng thần học, đức tin, mối tương quan giữa Kitô giáo và văn hóa thường được diễn tả qua một số thuật ngữ với hàm ý “Hội nhập văn hóa” (HNVH) như chuyển dịch, thích nghi, bản địa hóa, nhập thể, tiếp biến văn hóa... Tuy nhiên, mỗi thuật ngữ chỉ phản ánh một số khía cạnh nào đó của mối tương quan này. Nói đơn giản, hội nhập văn hóa là để Việt hóa Kitô giáo, để đạo Chúa dễ dàng thấm sâu, biến đổi văn hóa bản địa, giúp công cuộc truyền giáo thêm thuận lợi, vì đây mới là mục đích đúng nhất của HNVH.
Dưới nhãn quan Kinh Thánh, mầu nhiệm nhập thể gợi lên hình ảnh HNVH thật sống động. Sự kiện mở đầu Tân Ước xảy ra trong chuồng bò: “Maria sinh con đầu lòng. Bà bọc con trong tã và đặt con trong máng cỏ”. Động từ “bọc” cho thấy hành động văn hóa đầu tiên của con Thiên Chúa làm người hòa nhập văn hóa trần gian.
Các nhà nghiên cứu cũng đề cao vai trò của Chúa Thánh Thần (Thần Khí) trong hội nhập văn hóa. Thời Cựu Ước, khi con cháu Nôe nói cùng một ngôn ngữ, rồi vì kiêu căng, phạm thượng đến Thiên Chúa và muốn làm một ngọn tháp cao chọc trời, bất cần sự có mặt của Thiên Chúa, nên Đức Giavê đã khiến họ không còn hiểu tiếng nói của nhau. Khi các Tông đồ họp nhau ngày Lễ Ngũ Tuần, Thánh Thần Chúa đã hàn gắn sự chia rẽ ngôn ngữ ấy, ban cho các nền văn hóa tuy không cùng một ngôn ngữ được hòa hợp, đều có thể hiểu và có thể loan truyền ơn cứu độ của Thiên Chúa. Thần Khí Chúa hoạt động nơi những người rao giảng và những người đón nhận Tin Mừng cũng như văn hóa của họ. Chính Thần Khí tác động để giáo huấn của Đức Giêsu, các hình thái đức tin Kitô giáo tiếp cận, hội nhập các nền văn hóa khác nhau, để chúng tự định hình, thích nghi…
Kitô giáo từ miền đất Trung Á đã hội nhập thật nhuần nhuyễn văn hóa châu Âu, và khi đến Việt Nam, các nhà truyền giáo mang theo đầy đủ các yếu tố của nền văn hóa rực rỡ ấy. Tuy rất xa lạ nhưng trong khoảng thời gian không dài, dù trải qua nhiều sóng gió, ngộ nhận những hình thái văn minh văn hóa Kitô giáo đã lên đường chuyển dịch, bối cảnh hóa và nhập thể.
Bên cạnh đó, phải kể đến “tầm nhìn” của Bộ Truyền giáo đã mở con đường mới cho cuộc hội nhập. Tài liệu “Monita ad Misinarios” (Nhắn nhủ các thừa sai) đã trao cho hai giám mục tiên khởi François Pallu và Lambert de la Motte khi đến Việt Nam năm 1659: “Chư huynh đừng bao giờ muốn sửa đổi, đừng tìm lý lẽ nào để buộc dân chúng sửa đổi những phép xã giao, tập tục, phong hóa của họ, trừ khi nó hiển nhiên mâu thuẫn với đạo thánh và luân lý. Có gì vô lý và bỉ ổi hơn mang theo cả nước Pháp, Tây Ban Nha, Ý hay bất cứ nước nào khác bên trời Âu sang cho dân Á Đông chăng?”.
Ngày nay, thời của thế giới phẳng, toàn cầu hóa 4.0, Giáo hội vẫn luôn nhấn mạnh đến việc HNVH, nổi bật với Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong tầm nhìn tiên tri của mình, đã nhấn mạnh đến văn hóa và việc hội nhập văn hóa hàng trăm lần trong Tông huấn Giáo hội tại Châu Á, công bố ngày 6.11.1999, tại New Dehli, Ấn Độ. Ngài nhắc nhở: “Nhờ hội nhập văn hóa, Giáo hội sẽ trở thành một dấu chỉ dễ hiểu hơn, giúp người ta hiểu bản chất của mình, đồng thời Giáo hội cũng trở thành một dụng cụ đắc lực hơn để thi hành sứ mệnh”. Nhìn lại lịch sử truyền giáo của Giáo hội Công giáo toàn cầu cũng như tại Việt Nam, chúng ta càng thêm xác tín về lời nhận định của vị Thánh Giáo Hoàng này. Khi càng sống đúng theo các giá trị căn bản của nền văn hóa Công giáo, như sự thật, tình yêu, tự do, công bằng, các nguyên tắc hành động cổ vũ một nền nhân bản toàn diện và liên đới…, thì chúng ta càng thu hút nhiều người tin vào Chúa Giêsu Kitô.
*
Không đợi đến Công đồng Vatican II đạo Chúa ở Việt Nam mới bắt đầu tiến trình hội nhập văn hóa dân tộc, mà ngay từ buổi đầu du nhập, các tín hữu đầu tiên đất Thăng Long đã dùng thể thơ lục bát, các bài vè vãn bằng tiếng Hán Nôm để ghi lại truyện tích Kinh Thánh. Ngày Tết, các gia đình Công giáo vẫn dựng cây nêu nhưng phía trên ngọn có thêm hình Thánh giá, lá dừa thay cho lá ôliu trong ngày lễ Lá...
Trên đường truyền giáo, đồng bằng Bắc bộ là điểm đến đầu tiên, nơi đạo Chúa hội nhập văn hóa Việt bằng tiếng Hán, Nôm. Thật đáng khâm phục, các Thừa sai châu Âu đã học và dùng hai loại chữ khó học ấy trong suốt 300 năm. Các vị đã để lại rất nhiều tư liệu có giá trị, hơn 300 ấn phẩm Hán Nôm thuộc đủ các thể loại được lưu trữ trong và ngoài nước. Văn bia Hán Nôm Công giáo, một hình thức HNVH lưu giữ ký ức nhiều thế hệ người Công giáo, đến nay còn lại khá ít do nhiều nguyên nhân.
Du nhập Việt Nam - một đất nước đã thấm đậm văn hóa Khổng, Lão và Phật giáo - đạo Công giáo vẫn lưu lại những dấu ấn của riêng mình qua cả một kho tàng tục ngữ ca dao đặc sắc: “Lễ Các Thánh gánh mạ đi gieo. Lễ Sinh Nhật giật mạ đi cấy” / “Mẫu đơn nở cạnh nhà thờ. Đôi ta trinh tiết đợi chờ lấy nhau” / “Amen, lạy Đức Chúa Trời. Xin cho bên Đạo, bên Đời lấy nhau”/ “Tháng Giêng ăn Tết ở nhà. Tháng Hai ngắm đứng, tháng Ba ra mùa. Tháng Tư tập trống rước hoa. Kết đèn làm trạm chầu giờ tháng Năm” ...
Đám rước kiệu của người Công giáo xưa nay cũng không khác rước hội làng bao nhiêu. Cờ ngũ sắc, hội bát âm, trống kèn đủ các loại, và nổi bật với đội kèn Tây. Các ông khăn đóng áo dài, các bà áo dài tứ thân, nón quai thao. Ngày giỗ Tết người Công giáo cũng thắp hương, bày hoa quả trước bàn thờ tổ tiên...
Song hành cùng ngôn ngữ địa phương, Thánh ca là loại hình nghệ thuật hòa nhập rất nhanh chóng, từ làn điệu dân ca ba miền đến các thể loại tân nhạc tiên tiến hiện đại sau này. Đặc biệt vào những năm 70 của thế kỷ trước, với các chuyển biến mạnh mẽ giữa lòng Giáo hội sau Công đồng Vatican II, “Thánh ca vào đời” xuất hiện cùng lúc âm nhạc trẻ Rock-Pop Tây phương - Nam Mỹ phát triển mạnh mẽ trên thế giới và tại miền Nam Việt Nam, đã thực sự đem lại cho nhạc Đạo một sức sống sôi động, mới mẻ, bên cạnh “thánh ca cồng chiêng” rực lửa Tây nguyên Jarai, Bahnar. Thánh ca với giai điệu, ca từ thuần Việt đã nuôi dưỡng nền thánh nhạc với rất nhiều bài ca thánh bất hủ, chuyển tải bao lời kinh nguyện, thay thế cả âm điệu trầm hùng long trọng của thể loại Bình ca Solemes bằng tiếng Latinh.
Hội họa Công giáo có mặt khá sớm, theo trào lưu bản địa hóa từ nhân vật đến cảnh trí trong tranh đều rất Việt Nam. Khá nhiều tranh vẽ đề tài Giáng Sinh, nổi tiếng nhất là các bức “Đêm Thánh” (sơn mài 1941) của danh họa Nguyễn Gia Trí, “Đức Mẹ và Chúa Hài Đồng” (tranh lụa 1941) của Lê Phổ. Sau này, tranh Giáng Sinh của các họa sĩ nổi tiếng như Tú Duyên, Nguyễn Anh, Nguyễn Phước, Nguyễn Siên... đều rất đẹp. Với đề tài “Đức Mẹ Maria và Chúa con”, các họa sĩ Nam Phong, Lê Văn Đệ, Lê Văn Bình, Tạ Tỵ... đã diễn tả hình ảnh Mẹ Maria thánh thiện, duyên dáng nét Á Đông.
Nhiều thế hệ nhạc sĩ, họa sĩ, nhà văn, thơ, điêu khắc... cho ra đời những tác phẩm giá trị, là di sản văn hóa hội nhập phi vật thể, làm phong phú thêm kho tàng nghệ thuật thánh đậm đà bản sắc Việt.

Thánh đường công giáo - Đôi điều tản mạn
Người bạn trẻ đề cập ở đầu bài chỉ “nghe” mà đã dạt dào cảm xúc với hình ảnh ngôi giáo đường đã quá thân quen, như một phần, một mảnh ghép, một mảng màu hài hòa, gần gũi, rất tự nhiên trong bức tranh tổng thể văn hóa Việt.
Đó là ngôi thánh đường ngày rước lễ lần đầu, nơi bạn thề nguyền trước Chúa cho cuộc sống lứa đôi... Ngôi nhà thờ xa xăm trên đường lập nghiệp, tình cờ gặp trong một chuyến đi xa. Ngôi thánh đường trong trí nhớ, trong kỷ niệm của một chuyện tình, một chuyện đời... vẫn theo ta đi từ những năm tháng tuổi thơ, vẫn như người bạn thân thiết, một bóng hình thân yêu suốt bao chặng đời người. Ngôi thánh đường trong ký ức, của một bản nhạc, một bài thơ xưa cũ... Tháp chuông cao, hồi chuông xóm đạo bàng bạc trong tranh, văn, thơ, nhạc mà tác giả hầu hết là người ngoại đạo. Từ câu thơ hồn nhiên tuổi học trò: “Hồn xanh em ngỡ nạm hoa sương. Nạm tiếng chuông tan đỉnh giáo đường” đến những “Chuyện tình buồn”: “Năm năm rồi đi biệt. Anh chẳng về lối xưa. Sân giáo đường cỏ mọc. Chiều hắt hiu xóm đạo. Gác chuông nằm chơ vơ. Chúa buồn trên thánh giá” ...
Thời chiến tranh khói lửa, người giáo dân theo kháng chiến vẫn ấp ủ hình bóng ngôi giáo đường, xóm đạo: “Lâu quá không về thăm xóm đạo. Từ ngày binh lửa cháy quê hương”; “Tha La ơi, xóm đạo ơi. Còn đâu nữa chiếc áo ngày xưa. Ðành khép kín, khoác vào bộ chiến y”. Người ở lại gởi gắm ước mơ hòa bình vào các ca khúc lãng đãng bóng giáo đường, chiều tan lễ..., tựa như lời nguyện cầu cho tình yêu, đất nước. Thánh đường trong tranh các họa sĩ nổi tiếng Đinh Cường, Hoàng Đăng Khanh, Lâm Đức Mạnh với tông màu lạnh đem đến người xem cảm nhận êm đềm của một nơi chốn bình yên.
Kiến trúc nhà thờ Công giáo từ khi có mặt đã là một phần rạng rỡ bên cạnh nghệ thuật kiến trúc tôn giáo nước nhà, mà đỉnh cao là quần thể nhà thờ đá Phát Diệm. Thời ấy chưa có khái niệm HNVH, nhưng người tín hữu đồng bằng Bắc bộ từ bao đời lớn lên trong không gian văn hóa cổ truyền dân tộc, nên khi bắt tay xây dựng nhà Chúa, cụ Sáu Trần Lục hình dung ngay ngôi thánh đường dưới dáng vẻ đình chùa theo kiểu “tiền thủy, hậu sơn”.
Ở miền Bắc, một số ít nhà thờ kiến trúc theo phong cách dân tộc (nhà thờ Nam), còn lại hầu hết đều theo kiểu Gothic, Roman châu Âu. Nhưng có điểm đặc trưng, dù theo phong cách nào, bên ngoài cũng như nội thất bên trong, đó là một kiến trúc pha trộn, giao thoa tinh tế giữa Đông và Tây, với rất nhiều họa tiết, hoa văn, các mảng sơn son thếp vàng toát lên bản sắc nghệ thuật cổ truyền.
Trên Tây nguyên, nhiều nhà thờ lại mang dáng dấp ngôi nhà sàn, nhà rông, nhà dài của đồng bào Thượng Jrai, Bahnar…, như nhà thờ Cam Ly (Đà Lạt), Pleichuet (Gia Lai). Nhà thờ Ka Đơn được giải thưởng quốc tế do kiến trúc đặc sắc, hòa vào núi rừng thiên nhiên, đậm nét văn hóa Churu. Các “nhà” đó đã trở thành nơi sinh hoạt chung, tạo kết nối giữa văn hóa Công giáo và văn hóa các dân tộc thiểu số.

Chùa hay nhà thờ?
Do quá trình giao lưu và dung hợp, văn hóa của một dân tộc không chỉ bao gồm bản sắc đặc thù rất riêng của mình, mà chính là kết quả hội nhập của nhiều thành tố văn hóa của các dân tộc láng giềng, hoặc xa hơn nữa, hình thành những nền văn hóa chung cho nhiều dân tộc và vùng lãnh thổ.
Khi truyền nhập vào một đất nước nào đó, các tôn giáo đều mang theo mình những hình thái văn hóa nơi nó đã phát triển và hòa nhập. Hàng ngàn năm trước, đạo Phật từ Ấn Độ theo chân thầy trò Đường Tăng vào Trung Hoa như gặp mảnh đất màu mỡ, đã phát triển rực rỡ và hội nhập nhuần nhuyễn vào nền văn hóa cổ kính Trung Hoa.
Khi đến Việt Nam, Phật giáo đã là một tôn giáo thuần túy Trung Hoa với đầy đủ những yếu tố văn hóa của nước này - từ ngôn ngữ, lễ nghi hành đạo…, và đặc biệt là lối kiến trúc các nơi phụng tự. Bên cạnh nước láng giềng khổng lồ với nền văn hóa lâu đời, đất nước nhỏ bé Việt Nam không thoát khỏi những ảnh hưởng đôi khi rất sâu đậm.
Những năm gần đây, nhiều nhà thờ Công giáo được xây mới hoặc sửa chữa thành những kiến trúc, nếu không có cây thánh giá trên nóc, sẽ rất dễ lầm với ngôi chùa Phật giáo. Việc xây dựng những “ngôi chùa” ấy thường không có các nhà chuyên môn về đình chùa, nên đã dựng nên những ngôi không phải chùa cũng không phải nhà thờ Công giáo, trong khi kinh phí bỏ ra không nhỏ.
Mái chùa thật ra chỉ là mái nhà bình thường trong kiến trúc nhà ở bên Trung Hoa. Từ thôn quê đến thành thị nhà đều có mái cong. Ngay như các mô phỏng nhỏ như mái chuồng chim bồ câu, mái hộp đồng hồ điện, hộp thư… cũng một kiểu như thế. Điều này cho thấy người Trung Hoa xây chùa hình thức y như nhà ở, chỉ to rộng hơn. Cũng như người phương Tây xây dựng nhà thờ theo cái nhìn, tập quán ăn ở nơi châu lục của họ.
Nhìn một ngôi chùa Phật giáo, nếu không phải là nhà chuyên môn, chúng ta khó phân biệt được chùa Việt Nam khác chùa Tàu ở chỗ nào, từ tổng thể đến các họa tiết trang trí. Trong một hội nghị về kiến trúc Phật giáo gần đây, nhiều chuyên viên đã nhận xét: “Đang có sự mất phương hướng trong việc gìn giữ mái chùa. Một số ngôi chùa xây dựng theo mô típ xa lạ nào đó, chẳng phải theo truyền thống dân tộc, chùa rất to nhưng không có tí Việt Nam nào cả”.
Vậy thì khi xây nhà thờ với ý hướng HNVH, người Công giáo có nhất thiết phải theo kiến trúc đình chùa? Mỗi tôn giáo đều có lối kiến trúc nơi thờ tự khác hẳn nhau, dựa trên giáo lý, đức tin, cũng như văn hóa vùng miền: đền thờ Hồi giáo, thánh đường Công giáo, chùa Phật giáo, nhà thờ Tin Lành, thánh thất Cao đài... đều có những nét riêng. Giáo đường Công giáo với lịch sử hàng ngàn năm, là một dấu ấn vô cùng rực rỡ trong kho tàng kiến trúc thế giới. Ngày nay, khi xây mới nhà thờ, nếu không muốn rập khuôn phong cách châu Âu, chúng ta vẫn có thể sáng tạo theo khuôn mẫu nhà ở Việt Nam thời nay với kiểu dáng hiện đại, cách tân, và nhất là theo xu thế tối giản sang trọng, tinh tế (nhà nguyện Khâm Mạng của Hội dòng Mến Thánh Giá Huế hiện nay là một ví dụ tuyệt đẹp). Các chuyên viên am hiểu kiến trúc nhà thờ bên đạo - đời đều có chung ý kiến là nếu không được như nhà thờ đá Phát Diệm, thì không nên xây theo kiểu đình chùa.
Cũng vậy, có người nói “nội thất thánh đường nhà thờ miền Bắc có không gian thánh đúng nghĩa, nội thất nhà thờ trong Nam nhiều nơi nhìn giống như hội trường”. Nhận xét này không sai, do cách bày biện, trang trí khá tốn kém nhưng không đạt hiệu quả mong muốn, vô tình biến nơi thánh thiêng thành chỗ trưng bày lộn xộn những cái không cần thiết. Hồn của nghệ thuật thánh không nằm ở những vật liệu hào nhoáng đắt tiền. Vẻ trầm mặc tĩnh lặng cần có cho không gian chiêm niệm, cầu nguyện, đôi khi chỉ là chút hiệu ứng ánh sáng, cách xếp đặt đơn giản quy hướng về Cung Thánh, Nhà Tạm...
Tượng Đức Mẹ truyền thống xưa nay trong nhiều nhà thờ đã cho thay bằng tượng Đức Mẹ mặc áo dài Việt Nam, đầu đội khăn đóng nữ, Chúa Con mặc áo thụng hồng, chân đi hài đỏ. Đã có nơi, tượng trong hang đá Lộ Đức được thay bằng tượng Đức Mẹ La Vang và chị Bernadette là một thiếu nữ Việt Nam mặc áo bà ba trắng, quần đen. Đây là một trong nhiều cố gắng biểu hiện hướng hội nhập văn hóa. Nhưng về mặt lịch sử, địa lý, kiểu hội nhập này xem ra chưa ổn, vì Đức Mẹ hiện ra tại một địa danh có thật với Bernadette, một thôn nữ người Pháp, nay ta thay bằng các nhân vật Việt Nam, e sẽ làm mất đi nét đặc trưng cũng như xuất xứ của mỗi phép lạ Đức Mẹ đã làm.

Trên đường đồng hành cùng những thăng trầm lịch sử, 400 năm qua, văn hóa Công giáo với những thành tố rất riêng trong nghi lễ, kiến trúc, lối sống... không chỉ gánh vác sứ mệnh loan truyền đạo Chúa, mà đã như một nhánh nhỏ hòa quyện cùng dòng chảy văn hóa Việt, khi ĐẠO đã thấm đậm, là ĐƯỜNG đi và ĐIỂM đến cho cuộc hội nhập.
*Trong bài có sử dụng tư liệu trên Internet
NGUYỄN MẠNH HÀ
Bình luận