Kinh Thương Xót trong thánh lễ

Kinh Thương xót là tên Việt Nam chúng ta dùng để gọi kinh Kyrie eleison mà nếu dịch cho sát nghĩa là Lạy Chúa, xin dủ thương/ xin thương xót.

Trong phụng vụ thánh lễ hiện nay, kinh Thương xót nằm trong phần nghi thức đầu lễ, cụ thể là diễn ra sau hành động thống hối. Với 3 công thức của hành động thống hối được trình bày trong Sách lễ Rôma, kinh Thương xót sẽ chỉ được đọc/ hát nếu sử dụng công thức thống hối thứ I (Confiteor Deo) và công thức thống hối thứ II (Miserere nostri) mà thôi:

· Công thức thứ I chính là kinh Thú tội (kinh Cáo mình). Sau kinh Thú tội, cộng đoàn sẽ đọc/ hát kinh Thương xót.

Công thức thứ II là một cuộc đối đáp giữa vị chủ tế và cộng đoàn để giúp nhau ý thức về tình trạng lỗi phạm đến Chúa, nên ngưỡng vọng tình thương cứu độ của Chúa Giêsu. Chúng gồm hai câu nài xin lòng thương xót của Chúa như sau: Câu thứ nhất, Chủ tế: Lạy Chúa, xin thương xót chúng con - Cộng đoàn: Vì chúng con đã xúc phạm đến Chúa. / Câu thứ hai: Chủ tế: Lạy Chúa, xin tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng con - Cộng đoàn: Và ban ơn cứu rỗi cho chúng con. Sau hai câu này, cộng đoàn sẽ đọc/ hát kinh Thương xót.

LỊCH SỬ

Câu Lạy Chúa! Xin thương xót” được dịch từ tiếng Hy-lạp và nằm trong Bản Kinh Thánh Bảy Mươi (thế kỷ III trước Công nguyên). Câu Lạy Chúa! Xin thương xót” là lời tung hô (acclamation) được tín hữu lập đi lập lại nhiều lần trong một buổi cử hành phụng vụ khi ngôn ngữ phụng tự vẫn là tiếng Hy lạp từ thời kỳ đầu của Hội Thánh cho đến giữa thế kỷ III. Đây là kiểu nói đã được sử dụng nhiều lần trong Cựu Ước. Thật vậy, lời tung hô này xuất hiện trong các sách Isaia, Tobia, nhất là nơi các Thánh vịnh, chẳng hạn: Tv 4,2; 6,3; 9,14; 40, 5.11; v.v…, đặc biệt là lời kêu van của vua Đavit trong Thánh vịnh 51: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con[i] / “Lạy Thiên Chúa xin thương xót tôi theo lòng nhân nghĩa của Người[ii] (câu 3). Chúng ta cũng gặp thấy những lời tương tự trong Tân Ước (Mt 9,27; 15,22; 17,14; 20, 30-31; Mc 10,47; Lc 16,24; 17,13). Đó cũng là lời nguyện Chúa Giêsu đặt trên môi miệng của người thu thuế trong dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu ngyện trong Lc 18,14: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Không những các nhân vật trong Kinh Thánh mà ngay cả người ngoại giáo cổ thời cũng đã sử dụng lời tương tự để kêu cầu các thần linh của họ đến giúp đỡ như gặp thấy trong tác phẩm Iliad và Odysey của Homer.[iii]

Đối với Kitô giáo, đây là một trong những lời kinh cổ nhất xuất hiện trong phụng vụ hồi thế kỷ IV tại Syria và Palestin.[iv] Tuy không được các giáo phụ Hy-lạp thuộc thế kỷ IV (Eusebius,Athanasiô, Basiliô,Cyrilô thành Giêrusalem, Grêgôriôthành Nazianzusvà Grêgôriôthành Nyssa) cũng như hai giáo phụ La-tinh là Tertulianô và Cyprianô đề cập, nhưng ngay từ cuối thế kỷ IV, theo cuốn Nhật ký Hành hương của Egeria (Aetheriae Peregrinatio), điệp khúc này được lặp lại sau các triệt của một Thánh vịnh và đi kèm với cuộc rước.[v] Egeria mô tả rằng, tại Giêrusalem, vào cuối giờ kinh Hòang hôn/ Kinh Chiều (Vesperae) khi một trong những thầy phó tế xướng các ý nguyện, cầu cho các nhu cầu khác nhau (cho Hội Thánh, cho hoàng đế, cho bệnh nhân...) thì một số bé trai đứng và luôn luôn lặp lại điệp khúc Kyrie eleison (tiếng La-tinh là Domine! Misere!) sau mỗi ý nguyện.[vi] Kyrie eleison cũng được sử dụng tại Antiokia hồi thế kỷ IV để đáp lại những lời khẩn nguyện trong kinh cầu. Chính kinh cầu và lời đáp Kyrie eleison này sau đó nhanh chóng lan truyền khắp thế giới Kitô giáo.[vii]

Kinh Kyrie cũng được đọc sau phần Phụng vụ Lời Chúa (tức là sau bài Phúc Âm và dẫn giải của chủ tế), trước khi giải tán cho anh chị em dự tòng ra về (Messe des catéchumènes) vì họ không được tham dự Thánh lễ tín hữu (Messe des fidèles). Rôma đã du nhập lời tung hô này từ Đông phương có lẽ từ thế kỷ V, và cũng như tại Đông phương, Kyrie thường được đọc sau những bài Sách Thánh. Đức Gelasiô (492-496) đã cho thay thế Lời nguyện Chung (Lời nguyện Tín hữu) vào lúc kết thúc Phụng vụ Lời Chúa bằng việc đọc kinh cầu (litania) theo kiểu Đông phương với những lời đáp Hy-lạp của kinh này (PL 101:560f).[viii]

Tác giả De Clerck khẳng định, từ ban đầu, Kyrie là ca khúc độc lập tương tự như kinh cầu được tìm thấy trong các nguồn phụng vụ Milan. Nhưng John Baldovin lại cho rằng chúng có nguồn gốc từ phụng vụ Byzantine vốn được sử dụng trong những cuộc rước Chặng viếng tại Constantinopoli. Nó cũng giống trường hợp kinh Ba câu Tiền xướng và Trisagion (Hy-lạp) = Tersanctus (La-tinh) với Kyrie theo sau mỗi câu xướng mà vẫn còn được cất lên trong những cuộc rước phổ biến ở thành phố Constantinopoli. Nguồn gốc này chứng tỏ Kyrie không có liên hệ gì đến ăn năn và không cần thiết phải được coi như lời kinh thống hối.[ix]

Tại Gaul, Công đồng Vaison (529) xác nhận rằng Kyrie eleison là một thói quen đạo đức của Đông phương du nhập vào Roma và nhiều nơi ở Tây phương cũng như nước Ý, Công đồng đòi hỏi lặp đi lặp lại Kyrie trong "Kinh Sáng, các Thánh lễ và Kinh Chiều".[x] Đức Grêgôriô Cả (540-604) cho rằng chắc chắn phụng vụ Rôma chứa đựng một số hình thức của Kyrie vào thế kỷ V.[xi] Trong triều đại của mình (590-604), như một phần trong công cuộc cải cách, Đức Grêgôriô Cả đã đặt Kyrie một cách chắc chắn ở vị trí bắt đầu Thánh lễ (trước kinh Vinh danh) như thấy xuất hiện trong cuốn Ordo Romanus I cuối thế kỷ VII (OR I:52) và được hát bởi các giáo sĩ hay ca đoàn (schola) sau đó các tín hữu lập lại thay đổi nhau Kyrie eleisonChriste eleison.[xii] Sở dĩ Kyrie chiếm vị trí này vì nó liên hệ với các kinh cầu đọc khi đi rước [từ đền thờ Laterano đến nhà thờ Statio], đáng chú ý là kinh cầu các thánh.[xiii] Mặt khác, do muốn rút ngắn Thánh lễ, cho nên vào một số ngày nào đó (ngày thường) sẽ bỏ đi kinh cầu các thánh và các ý nguyện cầu và chỉ giữ lại Kyrie được hát xen kẽ với Christe (vốn không được biết đến trong nghi lễ Gallican và Đông phương) rồi đi thẳng vào lời Tổng nguyện (Collecta) luôn. Cách đọc này trở nên thông dụng trong nhiều giờ phụng vụ.[xiv] Thậm chí kinh cầu rút vắn này trở thành một luật lệ. Số lần đọc KyrieChriste thay đổi tùy vùng. Tại Đông phương, người ta đọc 12 lần để dẫn vào giờ kinh Nhật tụng, 40 lần để kết thúc một số lời nguyện. Còn tại Tây phương, có lẽ từ thế kỷ VIII, sau mỗi câu xướng, phụng vụ ấn định giáo dân phải thưa lại 7 lần, 5 lần, 3 lần hoặc là 9 lần Kyrie eleison, chia làm 3 đợt, mỗi đợt 3 lần (Kyrie eleison 3 lần; Christe eleison 3 lần; Kyrie eleison 3 lần) như thấy xuất hiện trong phụng vụ ở các quốc gia Frankish (các bộ tộc Đức xưa kia).[xv] Điều này đã đặt nền tảng cho sự diễn dịch Ba Ngôi của lời tung hô: 3 lần cho Ngôi Cha, 3 lần cho Ngôi Con và 3 lần cho Ngôi Thánh Thần.[xvi]

Hồi thế kỷ X-XVI, Kyrie được thêm thắt một loại cụm từ mà tiếng La-tinh gọi là Tropus (bắt nguồn từ tiếng Hy-lạp là Tropos) và được dệt nhạc thật hoa mỹ, phức tạp với nhiều nốt nhạc trên một vần khiến cho kinh Kyrie ngày càng dài ra cũng như mất dần ý nghĩa lời nguyện của cộng đoàn và chỉ thích hợp và dành riêng cho những người chuyên về âm nhạc thuộc ca đoàn. Chính vì đem Tropus vào kinh Kyrie mà các nhạc sĩ tha hồ sáng tác đến độ mỗi địa phương đều có hàng tá kinh Kyrie của riêng mình. Tời thời Đức Piô V, Sách lễ Roma 1570 cấm hẳn các Tropus này.[xvii]

Ritus servandus từ năm 1570 đến năm 1962 đều dạy phải đọc 3 lần: Kyrie eleison. Kyrie eleison. Kyrie eleison. / Christe eleison. Christe eleison. Christe eleison./ Kyrie eleison. Kyrie eleison. Kyrie eleison.

Từ Sách lễ 1970, chúng ta chỉ đọc hai lần mà thôi: Kyrie eleison. Kyrie eleison./ Christe eleison. Christe eleison./ Kyrie eleison. Kyrie eleison.

Hiện nay, kinh Kyrie được thực hiện sau hành động thống hối (post actum paenitentialem). Kinh Kyrie là một bài thánh ca (cantus) thuộc về cộng đồng cho nên “bài này thường được mọi người hát, nghĩa là dân chúng, ca đoàn hay xướng ca viên, đều góp phần vào đó, không còn là bài hát của riêng ca đoàn như thời Trung cổ nữa. Theo Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma [2002]: Thường mỗi lời tung hô được hát hay đọc hai lần, nhưng vì đặc tính của các ngôn ngữ khác nhau, vì nghệ thuật âm nhạc, hay vì hoàn cảnh, cũng có thể lập lại nhiều lần. Khi kinh "Lạy Chúa, xin thương xót" được hát như là một thành phần của Nghi thức Thống hối, thì trước nó có những câu tung hô riêng” (số 52).

Ý NGHĨA

Căn cứ vào nghi thức Thánh lễ, Kyrie rõ ràng không thuộc về phần “Hành động Thống hối”. Trước kia và hiển nhiên là ngày nay, Kyrie những lời tung hô Chúa Kitô và kêu cầu lòng thương xót của Người” hơn là kêu gọi sự tha thứ.[xviii]

Trong các sách Tin Mừng, nhiều lời khấn van Kyrie eleison của những người khốn khổ rõ ràng hướng đến Đức Giêsu như là Đấng Mêsia để xin Ngài chữa bệnh cho họ hay cho con cái họ: người mù ở Giêricô kêu lên rằng: Lạy ông Giêsu, con vua Đavit, xin dủ lòng thương tôi!” (Mc 10,48; Xc. Mt 9,27; 20,30-31); những người phong cùi kêu lớn tiếng: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!” (Lc 17,13); người phụ nữ Canaan (Mt 15,22) và người cha của đứa bé bị kinh phong cũng kêu xin như vậy (Mt 17,14). Từ khi ấn định phải đọc 9 lần và chia thành 3 đợt (Kyrie eleison 3 lần; Christe eleison 3 lần; Kyrie eleison 3 lần), người ta cho rằng Kyrie là lời tung hô dâng lên Ba Ngôi Thiên Chúa.[xix]

Tuy nhiên, có những điểm dựa sau đây để phải đi đến kết luận: Kinh Thương xót là lời tung hô dâng lên Chúa Kitô, quy về Chúa Kitô chứ không phải quy về Thiên Chúa Ba Ngôi: i] Thứ nhất, bản Bảy Mươi [bản dịch Cựu Ước sang tiếng Hy-lạp] đã dùng từ Kyrios để dịch từ YHWH, tức ám chỉ thanh danh Thiên Chúa trong Cựu Ước. Nhưng khi dùng từ Kyrios trong các thư Rm 10,9; 1Cr 12,3; và Pl 2,11, thánh Phaolô lại áp dụng cho Chúa Kitô và thần tính của ngài, bởi thế Kyrios là danh xưng phổ biến dành cho Chúa Kitô mặc dầu sau này Kitô hữu đã sử dụng từ Kyrios cho bất cứ ngôi vị nào trong Ba Ngôi Thiên Chúa; ii] Thứ hai, công thức/ mẫu thống hối thứ III được trình bày dưới hình thức Kinh cầu hướng trọn về Chúa Kitô, vào hành động và kêu cầu tình lân ái của Ngài. Đây là một hình thức hoàn toàn mới, phân biệt với Kyrie eleison cũ bởi vì nó không còn hướng về Chúa Cha như những kinh cầu Kyrie nguyên thủy của Giáo Hội Đông phương và Tây phương nữa, nhưng hướng về Chúa Kitô và được gọi là công thức ca ngợi phẩm tính Chúa Kitô.[xx]

THỰC HÀNH

  • Kinh Thương xót có thể hát (đọc) bằng tiếng mẹ đẻ hay bằng tiếng gốc Hy lạp Kyrie eleison”.
  • Nên biết chọn lựa mẫu thống hối cho phù hợp với ngày lễ và mùa lễ. Chẳng hạn, dù có thể sử dụng kinh Cáo mình (Confiteor) trong toàn bộ năm phụng vụ, nhưng không nên ngày nào chủ tế cũng "quất" mẫu thứ I "Tôi thú nhận....", vì mẫu này thích hợp cách đặc biệt cho mùa Chay; mẫu thứ II đặc biệt thích hợp với những ngày thường trong tuần và các Chúa nhật mùa Thường niên vì nó ngắn gọn và súc tích cũng như làm giảm bớt những yếu tố khác nhau đôi khi chồng chất trong nghi thức đầu lễ;[xxi] mẫu thứ III thích hợp dùng trong mùa Vọng, mùa Giáng sinh, mùa Phục sinh và mùa Thường niên.
  • Khi đọc kinh thú tội, chúng ta vừa đấm ngực [3 lần] vừa đọc câu “lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”.[xxii]
  • Nếu chọn công thức thống hối I và II, luôn luôn có kinh Thương xót (Kyrie) theo sau.[xxiii]
  • Nếu chọn công thức thống hối III, các thừa tác viên như phó tế, độc viên hay lĩnh xướng viên đều có thể dẫn những lời khẩn nguyện ca tụng Chúa Kitô bằng những lời lẽ hoặc chủ đề được rút từ Kinh Thánh hay Giáo lý (chứ không phải kể lễ lỗi phạm của mình…). Trong trường hợp này, không đọc hay hát kinh Thương xót nữa sau lời chủ tế “Xin Thiên Chúa toàn năng …” bởi vì nó đã nằm trong mỗi lời khẩn nguyện rồi (x. QCSL 52). Chủ tế kết thúc nghi thức Thống hối bằng việc xướng “Xin Thiên Chúa toàn năng…” mà không làm dấu Thánh giá. Khi sáng tác dựa theo mẫu thống hối thứ III, phải tuân thủ một vài quy luật sau: i] Những lời kêu cầu phải quy về Chúa Kitô, chứ không quy về Chúa Cha, Chúa Thánh Thần, Đức Mẹ hay bất kỳ vị thánh nào; ii] Những lời kêu cầu phải vắn gọn; iii] Nội dung của những lời kêu cầu phải dựa trên nền tảng Kitô học thích ứng với mùa, ngày lễ hoặc bài Tin Mừng hôm đó; iv] Như đã nói ở trên, những lời kêu cầu không phải là bản xét mình liệt kê các tội mà là những lời cảm tạ và chúc tụng Chúa Kitô.
  • Các mẫu thống hối trong Thánh lễ hiện nay không phải khẩn cầu Thiên Chúa Ba Ngôi nhưng luôn luôn khấn nguyện Chúa Kitô.[xxiv]Vì thế, nên loại bỏ bài hát “Nguyện cùng Cha nhân ái xin thương xót thân con tội tình,/ xin thương xót con, xin thương xót con./ Xin Chúa Kitô uy linh hãy tha thứ hết mọi lỗi lầm,/ xin Chúa Kitô hãy thương xót con./ Xin Chúa Thánh Linh nguồn ơn, dẫn đưa con về chốn trường sinh,/ xin thương xót con, xin thương xót con.” hay những bài hát có nội dung tương tự vì hai lý do: i] Quy về Chúa Ba Ngôi chứ không phải Chúa Kitô; ii] Không giữ đúng lời của bản văn phụng vụ vốn thuộc về yếu tố lời không được thay đổi.
  • Đừng bao giờ hát kinh Thương xót rồi lại chỉ đọc kinh Vinh danh.[xxv]


[i] Bản dịch của Nhóm Phụng Vụ Các Giờ Kinh.

[ii] Bản dịch của cha Nguyễn Thế Thuấn.

[iii] Xc. Paul Turner, The Supper of the Lamb (Chicago: Liturgy Training Publications, 2011), 18.

[iv] Xc. Paul Turner, The Supper of the Lamb, 18; Le Gall, La Mess au fil de Ses Rites (Chambray: C.L.D, 2001), 30.

[v] Xc. Egeria, Diario Di Viaggio, Traduttore:E. Giannarelli, Edizione:3 (Roma: Paolile Editoriale Libri, 2006), 24: 5.

[vi] Xc. Xc. Joseph A. Jungmann, The Mass of the Roman Rite: Its Origins and Development, vol. II, trans. Francis A. Brunner (New York: Benziger, 1951), 334.

[vii] Xc. W. Jardine Grisbrooke, “Kyrie” trong The New SCM Dictitionary of Liturgy and Worship, ed. Paul Bradshaw (London, SCP Press, 2002), 268.

[viii] Lawrence J. Johnson, The Mystery of Faith: A Study of the Structural Elements of the Order of the Mass (Washington DC: FDLC/ NE, 2003), 16.

[ix] John Baldovin, "History of the Latin Text and Rite", trong A Commentary on the Order of Mass of the Roman Missal (Collegeville, Minnesota: The Liturgical Press, 2011), 121.

[x] Canon 3, CCL 148A:79, trích lại trong Paul Turner, The Supper of the Lamb (Chicago: Liturgy Training Publications, 2011), 18.

[xi] Trích lại trong John Baldovin, "History of the Latin Text and Rite", 120.

[xii] Le Gall, La Mess au fil de Ses Rites, 30.

[xiii] PL 77:955-958, trích lại trong Paul Turner, The Supper of the Lamb, 18.

[xiv] Nguyễn Thế Thủ, Phụng vụ Thánh Thể, 49.

[xv] Lawrence J. Johnson, The Mystery of Faith, 16.

[xvi] Johannes H. Emminghaus, The Eucharist - Essence, Form, Celebration (Collegeville, Minnesota: The Liturgical Press, 1997), 122.

[xvii] Nguyễn Thế Thủ, Phụng vụ Thánh Thể, 50.

[xviii] Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma [2002], số 2; Xc. Paul Turner, The Supper of the Lamb, 19.

[xix] Nguyễn Thế Thủ, Phụng vụ Thánh Thể, 49.

[xx] Xc. Johannes H. Emminghaus, The Eucharist - Essence, Form, Celebration, 119; Paul Turner, The Supper of the Lamb, 18.

[xxi] Ibid.

[xxii] Nghi thức Thánh lễ [2002], số 4.

[xxiii] Xc. Paul Turner, The Supper of the Lamb, 19.

[xxiv]Xc. Johannes H. Emminghaus, The Eucharist - Essence, Form, Celebration, 120.

[xxv] J. Leben, Để sống Phụng vụ (Edition du Cerf, 1986), 88.

Lm. Giuse Phạm Ðình Ái, dòng Thánh Thể, SSS

Từ khoá:
Chia sẻ:

Bình luận

có thể bạn quan tâm

Nối kết đạo đời
Nối kết đạo đời
 Phường Tân Hòa, TPHCM, một đơn vị hành chính mới được thành lập trên cơ sở sáp nhập ba phường 6, 8 và 9 của quận Tân Bình cũ, là nơi sinh sống của hơn 61.000 người trên diện tích khoảng 2.67km2.
Thú vị tên gọi những xứ đạo “họ Tân”
Thú vị tên gọi những xứ đạo “họ Tân”
Tổng Giáo phận TPHCM có 23 xứ đạo với tên gọi bắt đầu bằng chữ “Tân”. Mỗi danh xưng gắn liền với lịch sử thành lập, cùng nguyện ước, niềm hy vọng về những điều tốt đẹp trên hành trình chọn nơi an cư.
Khiết Tâm Ðức Mẹ Nha Trang mở phòng khám Ðông y
Khiết Tâm Ðức Mẹ Nha Trang mở phòng khám Ðông y
Đáp lại lời mời gọi của Năm Thánh 2025 - Năm của niềm hy vọng, dòng Khiết Tâm Đức Mẹ Nha Trang đã hiện thực hóa thao thức mục vụ của mình bằng việc vừa mở một phòng khám Đông y tại giáo xứ Hòa Tân, nhằm chia sẻ và...
Nối kết đạo đời
Nối kết đạo đời
 Phường Tân Hòa, TPHCM, một đơn vị hành chính mới được thành lập trên cơ sở sáp nhập ba phường 6, 8 và 9 của quận Tân Bình cũ, là nơi sinh sống của hơn 61.000 người trên diện tích khoảng 2.67km2.
Thú vị tên gọi những xứ đạo “họ Tân”
Thú vị tên gọi những xứ đạo “họ Tân”
Tổng Giáo phận TPHCM có 23 xứ đạo với tên gọi bắt đầu bằng chữ “Tân”. Mỗi danh xưng gắn liền với lịch sử thành lập, cùng nguyện ước, niềm hy vọng về những điều tốt đẹp trên hành trình chọn nơi an cư.
Khiết Tâm Ðức Mẹ Nha Trang mở phòng khám Ðông y
Khiết Tâm Ðức Mẹ Nha Trang mở phòng khám Ðông y
Đáp lại lời mời gọi của Năm Thánh 2025 - Năm của niềm hy vọng, dòng Khiết Tâm Đức Mẹ Nha Trang đã hiện thực hóa thao thức mục vụ của mình bằng việc vừa mở một phòng khám Đông y tại giáo xứ Hòa Tân, nhằm chia sẻ và...
Hội thảo thánh nhạc “100 Năm Dòng Chúa Cứu Thế - Hát khen Thiên Chúa giữa lòng đời”
Hội thảo thánh nhạc “100 Năm Dòng Chúa Cứu Thế - Hát khen Thiên Chúa giữa lòng đời”
Tối 20.9.2025, tại hội trường thánh Anphongsô (38 Kỳ Đồng, phường Nhiêu Lộc, TPHCM), tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam đã tổ chức buổi hội thảo thánh nhạc với chủ đề “100 năm Dòng Chúa Cứu Thế - Hát khen Thiên Chúa giữa lòng đời”.
Sứ mệnh cộng tác của người giáo dân
Sứ mệnh cộng tác của người giáo dân
Sứ mệnh cộng tác của người giáo dân là một trong những nội dung trọng tâm của Công đồng Vatican II, và vừa được làm nổi bật lại qua hai đại hội của Ủy ban Giáo dân và Ủy ban Mục vụ Gia đình tại Việt Nam.
Đức Bà Cồn Trên
Đức Bà Cồn Trên
Lặng lẽ nơi cực tây vùng cù lao Giêng, nhà thờ Ðức Bà Cồn Trên (xã Cù Lao Giêng, An Giang) là chốn lui tới của bao người mang lòng sùng kính Ðức Mẹ.
Thắp lửa tri thức
Thắp lửa tri thức
Caritas hạt Tân Định, Tổng giáo phận TPHCM đã tổ chức buổi trao học bổng cho hơn 33 em học sinh các cấp vào tối ngày 18.9.2025.
Cha Đắc Lộ và Chân phước Anrê Phú Yên
Cha Đắc Lộ và Chân phước Anrê Phú Yên
Cuộc đời và gương sáng của hai chứng nhân đức tin cha Đắc Lộ và Chân phước Anrê Phú Yên chính là tâm điểm của buổi hội thảo do Tòa Giám mục Qui Nhơn tổ chức ngày 22.9.2025 tại Chủng viện Qui Nhơn.
Linh mục và sứ mạng ra đi loan báo Tin Mừng
Linh mục và sứ mạng ra đi loan báo Tin Mừng
Ngày 22.9.2025, Đức Giám mục giáo phận Vinh Anphong Nguyễn Hữu Long đã cử hành thánh lễ truyền chức linh mục cho 20 thầy phó tế bao gồm 17 tiến chức thuộc Đại Chủng viện Thánh Phanxicô Xaviê, 02 tiến chức thuộc dòng Truyền giáo thánh Carôlô Scalabrini và 01...