Những mùa đông khắc nghiệt và mùa hè khô hạn đang đe dọa sự sống của dân du mục Mông Cổ, buộc họ phải nghĩ ra cách ứng phó nếu không muốn bị mất đi sinh kế.
Trong nhiều thế kỷ qua, các gia đình du mục Mông Cổ dẫn theo đàn gia súc của họ đi khắp thảo nguyên rộng lớn, duy trì lối sống của cha ông từ bao đời. Thế nhưng, biến đổi khí hậu đã thay đổi mọi thứ, buộc họ phải tìm cách thích ứng. Mùa đông đang ngày càng lạnh hơn còn các sự kiện thời tiết cực đoan diễn ra thường xuyên hơn trước.
![]() |
Tương lai ảm đạm
Tình trạng ấm lên toàn cầu đang gây ra những tác động nhanh chóng cho nước này nếu so với các phần còn lại của thế giới. “Trong 70 năm qua, nhiệt độ trung bình ở Mông Cổ đã tăng 2,1 độ C, một trong những mức tăng cao nhất đang xảy đến cho Trái đất”, Đài DW dẫn lời bà Tunga Ulambayar, Giám đốc tổ chức phi lợi nhuận Nghiên cứu, Đào tạo và Cố vấn Môi trường Saruul Khuduu (trụ sở Ulaanbatar) cho biết. Giới khoa học dự báo rằng tính đến cuối thế kỷ 21, nhiệt độ ở Mông Cổ có thể tăng lên 5 độ C. Những sự kiện thời tiết cực đoan đang diễn ra với tần suất nhiều hơn ở một số khu vực. Các “dzud”, tức mùa đông vô cùng khắc nghiệt, xuất hiện dày đặc hơn trước. Một số nơi trải qua mùa hè mưa dữ dội, trong khi có nơi bão mùa đông lại tăng mạnh.
Mông Cổ là một trong những quốc gia du mục hiếm hoi còn sót lại của thế giới. Nền kinh tế nước này phụ thuộc vào sản lượng gia súc, và đồng cỏ bao phủ khoảng 80% diện tích lãnh thổ. Bị xem là sống bên lề của thế giới, người du mục dễ hứng chịu tổn thất đến từ biến đổi khí hậu. Do dzud, mùa đông từ năm 1999 đến 2000 chứng kiến nước này tổn thất 30% số gia súc trên toàn quốc. Còn trong đợt dzud năm 2009, 2 triệu gia súc, tương đương 20% số gia súc của quốc gia, chết vì thời tiết xấu. Bên cạnh đó, các con sông đang dần bốc hơi. “Sông Khunkeree từng chảy qua chiều dài đến 25 cây số, nhưng ngày nay khoảng cách này thu hẹp còn 20 cây số”, theo ông Batkhuyag Tseveravajaa, người đứng đầu cộng đồng Uvurkhangai ở sa mạc Gobi.
Khoảng 28% dân số Mông Cổ sống trong cảnh nghèo khổ, với nhiều người sống dựa vào thu nhập theo từng ngày. Vì thế, mỗi khi thiên tai ập đến đều gây hệ quả rất nghiêm trọng và gây ảnh hưởng lâu dài.
![]() |
Sự cần thiết phải thay đổi
Để ứng phó tình hình mới, một số gia đình đang tìm cách sáp nhập thành các cộng đồng, tập hợp các nguồn lực với nhau. Họ hy vọng cách tiếp cận này có thể cho phép lối sống du mục truyền thống vẫn được truyền thừa thêm nhiều thế hệ.
Cụ thể, việc thành lập cộng đồng cho phép họ chăm nom các đàn gia súc tốt hơn, phân công lao động hiệu quả, từ đó làm chậm hoặc thậm chí chặn đứng nguy cơ thoái hóa đất đai. Kết quả cho thấy những gia đình tập hợp nhau giảm được tổn thất đáng kể trong trường hợp dzud xảy ra. Tuy nhiên số lượng các gia đình họp lại với nhau cũng không được quá nhiều vì sẽ tạo thành đàn gia súc quá lớn, khiến đất đai cạn kiệt nhanh mà không kịp phục hồi.
Ông Batkhuyag Tseveravajaa, người đứng đầu cộng đồng Uvurkhangai, tin vào ích lợi của sự đoàn kết: “Cùng nhau, chúng tôi thu thập rơm rạ chuẩn bị cho mùa đông. Chúng tôi trồng rau, chăm sóc dê cừu, và đảm bảo các con sông luôn sạch. Những hoạt động này được triển khai nhanh hơn nếu chúng tôi hợp lực”. Bên cạnh đó, việc thuộc về một cộng đồng cũng mang đến sự ủng hộ của xã hội trong trường hợp nguy cấp. Cộng đồng của ông Tseveravajaa có khoản chi 5 triệu tugrik (hơn 34,4 triệu đồng) cho những thành viên bị ảnh hưởng nặng nề do thiên tai.
Bà Ulambayar đánh giá các cộng đồng chứng tỏ sự kiên cường đáng nể trước thiên tai. Giải pháp cho các thách thức đến từ những thay đổi môi trường và xã hội nằm trong phạm vi đối thoại giữa các cộng đồng và những tổ chức hỗ trợ. “Cho đến nay, mô hình này tiếp tục chứng tỏ hiệu quả”, bà Ulambayar kết luận.
HỒNG HOANG
Bình luận