Ai sinh ra và lớn lên ở miền đồng bằng sông nước hẳn sẽ quen thuộc với hình ảnh những ngôi nhà lá lúp xúp trải dài trên các xóm làng. Ðể có lá dùng lợp nhà, dân quê phải chằm từ lá dừa nước, một loại cây đặc trưng của miền châu thổ.
Nghề chằm lá từ lâu đã gắn bó với những mảnh đời lam lũ. Tuy nhiên, cuộc sống đổi khác, những ngôi nhà cấp bốn, nhà kiểu Thái mọc lên. Nhà mái lá ít đi. Cái nghề mưu sinh của nhiều thế hệ lùi dần vào dĩ vãng.
![]() |
Chằm lá là nghề khá quen thuộc với người phụ nữ Nam bộ - ảnh: Tuyết Linh |
CÔNG PHU ÐỂ CÓ TẤM LÁ ÐẸP
Chưa có một cuộc khảo sát chính thức về số người lao động trong nghề chằm lá ở nông thôn, nhưng có thể ươm ướm rằng hầu như người phụ nữ nào ở miền quê cũng biết chằm lá. Nghề này không cần được đào tạo. Không ai cấp bằng. Nói theo cách của nhiều cô dì lớn tuổi, bằng cái giọng ngọt ngào, chân chất của dân miền Tây: “Cứ thấy người ta làm, rồi làm vậy thôi”. Nhưng không phải “cứ làm vậy” là được. Chằm lá cũng lắm công phu!
Lá ở đây mặc định là lá dừa nước. Cây dừa nước ở đồng bằng sông Cửu Long sống theo bụi. Cây mọc um tùm bên bờ sông, trong các con kênh, rạch. Cái ao nhỏ xíu sau hè cũng có thể là nơi bụi dừa phát triển xanh tốt. Những bụi cây mọc tự nhiên, xanh ngát quanh năm, không cần một bàn tay nào chăm sóc, phân bón. Chặt lá trên các con sông, con kênh, người ta thường dùng xuồng ghe để tiện di chuyển. Những thanh niên khỏe khoắn sẽ đảm nhận công việc này. Thường, người ta lựa khi sáng tinh mơ hoặc xế chiều, lúc nắng không gắt, chặt một mạch. Sau khi chặt lá, các anh róc ra thành từng tấm riêng, bó lại mang về. Lá được chọn là những tàu đã già, màu xanh đậm đà. Một số tàu già đến độ chót lá ngả vàng, ngả đỏ. Bà Nguyễn Thị Bảy (59 tuổi, Kế Sách, Sóc Trăng) cho biết, sở dĩ chọn lá già vì độ bền và dai của nó: “Lá cứng, chắc chắn thì mới che mưa che nắng được. Còn lá non, đốn về chưa gì đã héo, thu gọn lại, không thể chằm vào cây hom”. Hơn ba mươi năm trong nghề, bà chia sẻ chỉ cần nhìn tàu lá thoáng qua thì biết ngay có sử dụng được không. Thân của tàu lá được dùng làm hom, có vai trò làm cây chính để chằm vào đó những tấm nhỏ. Ông Trần Văn Cương (Ngã Bảy, Hậu Giang), một nông dân 72 tuổi nói về nghề chằm lá như kể về người bạn chí cốt: “Chằm lá với dân Nam bộ thì có khó gì đâu. Muốn cho tấm lá chắc chắn, mình phải chọn hom cho thiệt kỹ. Lựa cây nào thẳng, không cong vẹo. Cái này quá dễ bởi đa số thân cây đều mọc thẳng, ít cây nào cong lắm. Người ta quy ước hom cây chỉ dài 2m thôi. Tầm đó thì vừa tay. Dài quá dễ gãy và khó đem tới lui, nhất là lúc lợp nhà”. Thời trẻ, ông Cương làm ruộng, ở trong căn nhà đơn sơ hơn nửa đời người. Qua vài mùa mưa nắng, nhà ông được thay lá một lần. Cuộc đời có biết bao bận chằm lá, tự lợp nhà rồi lợp giằng công, thay phiên cho anh em lối xóm. Sống trong ngôi nhà cấp 4 mới xây được ba năm, khang trang, ông vui mừng nhưng thi thoảng nhớ lại nghề cũ: “Thời đó, trai gái gì cũng biết chằm lá. Chẳng qua phụ nữ làm nhiều hơn thôi. Công việc này đòi hỏi ngồi lâu, khéo tay. Các tấm lá được đặt vào hom phải so cho ngay ngắn, chằm không khít quá mà cũng không thưa. Sợi dây đan lá xỏ xuống, vết xỏ cũng nhỏ, người chằm làm nhanh, kéo cho thật chắc. Nếu để vết xỏ ở những chỗ đan lá lớn, tới mùa mưa sẽ bị dột. Tấm lá thưa quá cũng bị dễ mau dột”. Tấm lá dùng làm lợp nhà được kết dệt hoàn toàn từ tự nhiên. Cả dây đan lá, dân quê cũng thường tận dụng từ lớp vỏ của những cây lùng. Loại cây này mọc rậm rạp trong các con kênh hay cạnh bờ ao. Bà Bảy cho biết, vỏ cây lùng dẻo, rất chắc.
![]() |
Chở lá từ các con kênh đem về nhà
|
NHỚ MỘT THỜI VÀNG SON
Nhà mái lá ở nông thôn ít dần là biểu hiện rõ thấy của sự phát triển kinh tế. Chí ít, so với 10 năm, 20 năm trước kia, đời sống dân quê đã đỡ nhọc nhằn. Dĩ nhiên, vẫn còn đó nhiều mảnh đời kém may mắn cần được nâng đỡ. Trên các xóm làng Nam bộ, ngày nay nhiều gia đình sửa sang, thay mới ngôi nhà trông thật khang trang. Giống như tre nứa, với những nghề thủ công từ nó đi vào quá vãng, nghề chằm lá cũng qua thời hưng thịnh. Bà Nguyễn Thị Ánh Nguyệt (63 tuổi, Trà Ôn, Vĩnh Long) bồi hồi kể về những năm cuối thập niên 1990, rồi 2000, cuộc sống còn vất vả, bà và các con gái cùng chọn nghề chằm lá kiếm tiền trang trải: “Thật ra không phải là chọn. Ngày đó không có quá nhiều lựa chọn. Ở miệt vườn, ngoài làm đồng, trồng rẫy thì có làm gì khác, đặc biệt hơn. Nhà nào có nhiều lá thì chằm, bán. Người ta thu mua để lợp nhà, lợp quán xá hoặc có người chuyên chở tới nơi xa xôi hơn, bán cho bà con xứ khác. Tới mùa, mình xin đi chằm cho nhà nào cần, lấy tiền công”. Mùa mà bà Nguyệt nhắc tới là mùa bà con thay lá lợp nhà, trước khi Nam bộ bắt đầu mùa mưa, khoảng tháng 2, tháng 3 Âm lịch. Nhà mái lá, sau vài năm, các tấm lá mục theo thời gian. Mùa mưa, nước dột lỏm chỏm.
Nói về một thời đi chằm lá, bà Lê Thị Hoa (65 tuổi, Phong Ðiền, Cần Thơ) cho biết, ngày trước cứ chằm được 100 tấm lá, thù lao là bốn chục ngàn đồng, rồi sau này lên được năm chục ngàn. “Một ngày, nếu ai lành nghề, làm nhanh và siêng năng từ sáng đến tối có khi được hai trăm tấm, là được cả trăm ngàn rồi. Nghỉ trưa chừng một tiếng thôi. Mình đem cơm theo ăn. Ngồi xả hơi, nói chuyện này nọ rồi làm tới chiều tối. Ráng làm cho sắp nhỏ có tiền đi học, mua nước mắm, nước tương trong nhà, chứ hồi đó khó khăn…”, bà nhớ lại. Cái nghề đồng hành với bà và cả một số cô con gái nông thôn vì hoàn cảnh gia đình nghèo khó, dở dang trường lớp. Bà Hoa chia sẻ thêm, chằm lá không khó khăn nhưng đòi hỏi kiên nhẫn: “Vì ngồi một chỗ từ ngày này qua ngày kia rất mệt. Tấm lá cứng, có khi bản rộng, tay dùng hết sức để bẻ. Mà bẻ phải cho vuông với hom lá, nhìn đều với nhau”.
![]() |
Những bụi dừa nước xanh tốt dễ thấy ở khặp miền Tây |
Cái vui của nghề chằm lá có lẽ là khi đến mùa, nhà nhà cùng làm. Bà Nguyễn Thị Mai Hoa (57 tuổi, Kế Sách, Sóc Trăng) nói chuyện cũ: “Nhớ tới mùa chằm lá, mấy chị em cứ mỗi người một góc. Con trai cũng chằm nữa. Ðẹp là đằng khác. Ngồi gần nhau vừa làm, vừa nói chuyện xóm làng, mùa màng. Có những hôm tới 7 - 8 giờ tối, ăn cơm xong cũng bắt đèn ngồi chằm cho nhanh, kịp làm nhà hoặc giao cho người mua lá”. Nhưng tất cả những hình ảnh đó, bà Mai Hoa cho rằng đã đi qua rồi. Bây giờ, xóm của bà không ai còn sống trong căn nhà mái lá nữa. Mà bán cũng ít người mua. Còn bà Bảy cho hay, những khóm lá của gia đình đã được các con chặt bớt, để dọn mương, lấp đất trồng cây. Chỉ chừa lại một ít chằm làm chuồng gà, chuồng vịt. “Lớp trẻ bây giờ đố đứa nào biết chằm lá?”, nằm trên võng, bà Bảy buông một câu dài. Nhưng thật. Ngay các bạn trẻ ở đồng bằng, sinh sau đẻ muộn, lớn lên khi sự tồn tại của bờ đê, con đò, rặng dừa nước không còn tác động trực tiếp và mạnh mẽ vào đời sống, thì việc không biết đến một nghề chẳng liên quan chính mình cũng là thường tình.
Với những bậc trung niên, cao tuổi ở miền quê Nam bộ, nghề chằm lá thật quen thuộc, gần gũi. Nhắc tới nghề này khi chuyện trò cùng nhiều người, đồng nghĩa đang gợi mở để hồi tưởng ký ức. Có vui, có buồn. Những ngày tháng miệt mài, gian khổ nhưng đậm đà tình nghĩa, rồi khi sống cuộc đời mới, bớt gian truân, người ta vẫn nhớ về ngày cũ, nghề xưa. Cái nghề như một tấm phao, giữa biển đời chìm nổi!
Hùng Luân
Bình luận