Nghi lễ sùng kính Mình Thánh Chúa Giêsu
Kiệu Santi
Ði kiệu Santi (còn gọi là kiệu Mình Thánh) cũng là một nghi lễ long trọng của xứ đạo hay địa phận, tỏ lòng kính trọng Thánh Thể. Kiệu đặt Mình Thánh Chúa hầu hết là kiệu cổ hay còn gọi là kiệu vàng.
Trước khi đi vào trình bày đi kiệu Santi, chúng tôi thấy cần thiết phải trình bày về lai lịch và hình thức kiệu vàng, theo chúng tôi đây cũng chính là biểu hiện của hội nhập văn hóa.
Ở nhiều xứ đạo vùng đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ hiện còn lưu giữ khá nhiều kiệu, chủ yếu là kiệu BÁT CỐNG mà giáo dân quen gọi là KIỆU VÀNG. Kiệu vàng được đưa vào dùng ở xứ đạo từ khi nào và chữ “KIỆU VÀNG” xuất hiện khi nào? Qua một nguồn tài liệu cổ thì ít nhất năm 1887 đã có danh từ này. Tài liệu cho biết: ngày 3 tháng 12 năm 1887, tức ngày 17 tháng 11 năm Ðinh Hợi, nhân ngày Ðức Giáo Hoàng Lêô XIII (1878 - 1903) tròn 50 năm thụ phong linh mục, ba địa phận thuộc dòng Ða Minh (Hải Phòng - Thái Bình - Bùi Chu) làm một bài biểu bằng chữ Quốc ngữ và một bài biểu bằng chữ Hán dâng lên Ðức Giáo Hoàng. Ðồng thời các Giám mục của 3 địa phận trên đã sắm một chiếc kiệu vàng nhỏ, theo mẫu cổ người Việt với ảnh 15 ngắm Rôsa gởi dâng lên Ðức Giáo Hoàng.
![]() |
Kiệu vàng xứ đạo được dùng trong lễ kỷ niệm thánh Quan thầy, thánh tử đạo, trong tháng Hoa, tháng Mân Côi. Thông thường mỗi xứ đạo (nhiều nơi cả họ đạo) có từ một đến hai, ba kiệu vàng. Mỗi kiệu vàng tùy theo thánh lễ mà được đặt tên khác nhau như kiệu Thánh Tâm, kiệu Hoa, kiệu Mân Côi, kiệu Santi...
Về kiểu dáng, bộ đòn khiêng không khác gì bộ đòn khiêng của kiệu cổ người Việt. Ðòn khiêng được chia làm hai lớp : lớp dọc và lớp ngang xếp vuông góc. Lớp dọc thường dài gấp đôi lớp ngang. Mỗi lớp có hai đòn, mỗi đòn hai người khiêng, cộng là 8 người khiêng (kiệu bát cống). Tuy nhiên có những cỗ kiệu có tới 3 đòn dọc, 4 đòn ngang, cộng là 14 người khiêng... Hoặc có thể tới 5 - 6 đòn ngang, và như vậy số người khiêng nhiều lên. Tiếp vào phần đòn khiêng là bệ kiệu. Bệ kiệu chồng tam cấp, giật về hai phía. Thành mỗi cấp đều chạm trổ hoa lá, phù điêu kiểu đầu rồng hoặc hoa lá dây cách điệu. Ðặt trên bệ kiệu là khán. Nhưng đó là khán rỗng. Khán được làm bằng 4 trụ tròn dựng ở 4 góc bệ kiệu. Mỗi trụ được nối chéo nhau. Giao điểm của hai đường nối chéo phía trên dựng hình thánh giá. Các trụ và đường chéo chạm trổ hoa lá cách điệu.
Khán của kiệu vàng ở mỗi xứ đạo có sự khác nhau. Nhưng giống nhau ở một điểm là trên chóp dựng Thánh giá. Cá biệt có một vài xứ đạo ở địa phận Phát Diệm (Ninh Bình) đã mua kiệu của người Việt, mang về sửa sang đôi chút để dùng.
Kiệu Thánh Thể hay còn gọi là kiệu Santi cũng được xem là một nghi lễ trang nghiêm và thu hút ở các xứ họ và địa phận.
Cuộc đi kiệu được bắt đầu từ trong thánh đường, về cơ bản cũng giống như lễ đi kiệu thánh quan thầy, chỉ khác ở một vài điểm sau: Mình Thánh để trong Mặt Nhật thường là gò bằng đồng, do vị chủ tế (linh mục hoặc giám mục) cầm. Một phương du có bốn cột, đình làm bằng vải do bốn người cầm che trên đầu chủ tế. Kiệu Thánh Thể đi đến đâu, giáo dân tung hoa đến đó. Hoa được tính toán, dự trữ để tung thế nào cho đến hết cuộc đi kiệu. Suốt dọc đường giáo dân đọc kinh cầu nguyện, còn các ca đoàn, hội trống, kèn, bát âm... ca hát và hòa các bản nhạc ngợi ca Chúa Giêsu. Dọc đường các giáo xứ thường dựng một vài trạm gọi là trạm Santi[1] dùng để đặt Mình Thánh cho giáo dân dừng lại cầu nguyện một thời gian ngắn từ mười lăm đến ba mươi phút, sau đó cuộc đi kiệu lại tiếp tục. Cuộc đi kiệu Thánh Thể ở xứ đạo thường ngắn hơn so với đi kiệu Thánh Thể ở địa phận.
Ngoài kiệu Thánh Thể, nhiều xứ họ đạo còn có những cuộc kiệu khác, chẳng hạn kiệu mừng thánh quan thầy xứ đạo. Trước thánh lễ là một cuộc rước kiệu. Ở những làng giáo - xứ đạo cổ là kiệu vàng, trên đó là ảnh hoặc tượng Thánh Gia, tượng Chúa, tượng Ðức Maria. Kiệu được kết hoa lá. Quan viên đi trước kiệu, mặc áo thụng xanh, đầu đội khăn xếp, cầm bát bửu hoặc Thánh giá nến cao. Linh mục được che lọng vàng. Ði trước kiệu còn có những ban nhạc Nam (bát âm - nhạc cổ truyền thống người Việt), ban nhạc Tây (kèn đồng...) hoặc dùng một số hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian như múa trống múa mõ, trắc, đi kheo... cùng hành tiến trước kiệu. Cuộc đi kiệu quanh khuôn viên nhà thờ hoặc qua một số trục đường chính của làng giáo, xứ đạo thường náo nhiệt. Ở các xứ đạo miền Bắc, khi làm nhà thờ bao giờ người ta cũng lo làm con đường quanh nhà thờ, gọi là đường kiệu. Ðó là con đường để giáo dân đi kiệu trong một số lễ trọng và lễ thánh quan thầy có sử dụng kiệu.
Kiệu được đi từ trong nhà thờ và khi kết thúc cũng được đưa vào nhà thờ, đó là hình thức đi vòng quanh. Sau cuộc đi kiệu là thánh lễ.
PGS.TS Nguyễn Hồng Dương
________________________________________________
1 Có thể chỉ là bục gỗ như lễ đài dùng làm nơi đặt Mình Thánh cho trang trọng để giáo dân dừng chân cầu nguyện.
Bình luận