Múa mõ, trắc và trống trong rước kiệu
Trong các cuộc rước kiệu thường có những ban nhạc Nam (bát âm - nhạc cổ truyền thống người Việt), ban nhạc Tây (kèn đồng...) và một số hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian như múa trống, múa mõ, trắc, cùng hành tiến trước kiệu. Ở một số xứ đạo vùng đồng bằng Bắc Bộ mà chúng tôi có dịp đi khảo sát, thấy có nhạc bát âm chơi điệu hành vân lưu thủy, một loại nhạc thấy ở lễ hội làng Việt cổ. Ban (hội, hoặc phường) bát âm mặc áo dài đen, đầu đội khăn xếp. Họ được gọi là ban nhạc Nam (chơi nhạc cụ Nam - Việt Nam) vì xứ còn có ban nhạc sử dụng nhạc cụ phương Tây, dân gian gọi là nhạc Tây. Trong ban nhạc Nam còn có đội trắc, đội trống, đội mõ. Khi đánh trống, gõ mõ, gõ trắc…, các hộỉ viên vừa gõ, vừa múa theo những biên đạo khác nhau, dựa trên những điệu múa dân gian đã được chắt lọc.
![]() |
Đội trắc giáo họ An Tập, giáo xứ Hà Xá |
Múa mõ
Mõ là loại nhạc cụ của người Việt - nhạc cụ này giản đơn, dễ làm; dễ sử dụng nhất nên mõ không chỉ có mặt trong các chiếng chèo, trong các hội làng Bắc - Trung - Nam, mà còn “vươn ra ngoài xã hội”. Làng Việt dùng mõ mở đầu cho rao báo việc làng, tiếng mõ kèm với tiếng tù và để hộ đê, tiếng mõ cùng với tiếng trống khua rền vang đuổi trộm, cướp, xua giặc giã, giữ bình yên làng xóm. Ở miền Nam, trong các ngôi đình, cùng với trống là mõ được sử dụng trong lễ tế thần, kỳ yên, cầu cho quốc thái dân an, phong đăng, hòa cốc.
Cũng như làng Việt, làng Công giáo ở vùng đồng bằng Bắc Bộ xưa kia dùng mõ báo việc làng, việc xứ. Thường thì khi “hàng” xứ hay họ đạo có việc, một người được xứ đạo hay họ đạo cử đem mõ để gõ kèm theo lời rao.
Trong mùa Chay, tiếng mõ, kèm theo tiếng trống khẩu làm hiệu lệnh đưa viên chức lên ngắm đàng thánh giá. Cũng trong mùa Chay, chuông trong nhà thờ không được rung, mọi hiệu lệnh được thay bằng tiếng mõ. Tới Thứ Bảy Tuần Thánh, trước khi nến Phục Sinh được thắp, trong giờ phút linh thiêng chờ Chúa sống lại, tiếng mõ vẫn chế ngự không gian nhà thờ.
Một số ngày lễ trọng, lễ thánh quan thầy ở các xứ đạo, họ đạo thuộc địa phận Bùi Chu (tỉnh Nam Ðịnh) có tục múa mõ. Ở mỗi họ đạo thường có một đội mõ. Mỗi đội mõ có khoảng 20 em, tuổi đời từ 10 đến 15. Vì là nhạc Nam nên các đội viên ăn mặc quần áo dân tộc. Có khi chân quấn xà cạp, đầu chít khăn hoặc đội mũ kiểu mũ chào mào. Lối ăn mặc này khác với ban nhạc Tây, đội viên đội mũ kêpi, mặc đồng phục Âu châu, chân dận giày.
Mõ được làm từ gốc tre già đẵn từ các bụi tre làng. Người ta đẽo gọt hết rễ, khiến bề ngoài nhẵn bóng. Dùng xong, mõ được đem gác bếp chống mối mọt, lâu ngày ngả màu cánh gián. Ðể tạo ra âm thanh, người ta cưa một rãnh nhỏ ở giữa. Que mõ là một thanh tre chắc, để tiếng kêu thanh, vang.
Ði theo đội hình hai hàng, nhập vào đội hình đi kiệu của xứ, đội mõ vừa đi vừa gõ theo nhịp hành tiến. Chỉ đến khi dừng lại để múa, mõ mới được gõ theo nhịp 2/4 hoặc 4/6. Lúc này các đội viên vừa đánh mõ vừa múa. Mõ được gõ lúc giơ lên ở quá đầu, rồi gõ ở phía trước ngực, gõ ở phía sau thắt lưng, rồi lại luồn qua khuỷu chân. Nếu chân phải giơ lên theo hình thước thợ để mõ được gõ dưới khuỷu chân, thì chân trái làm trụ. Nếu chân trái giơ lên thì chân phải làm trụ. Lúc này các đội viên kết hợp xoay người, khi thì xoay lưng vào nhau, khi lại quay mặt vào nhau. Tay giơ lên cao, thấp, bên phải, bên trái, đằng trước, đằng sau, người khi rướn nhảy, khi lại cúi khom, xoay trước, xoay sau. Kèm theo đó là tiếng mõ rền vang, tạo giai điệu cho múa nhảy. Tất cả các động tác đều được làm thống nhất, đồng loạt. Ðể tạo cho các đội viên khi múa vẫn giữ được hàng lối, đội múa có một tổ từ 4 đến 6 em tham gia giữ trật tự. Các em được chia làm hai, đứng hai bên hàng đội mõ. Mỗi em giữ trật tự đều cầm một thanh kiếm gỗ. Khi làm nhiệm vụ giữ trật tự, các em nhảy theo điệu mõ nhưng theo cách riêng. Chỉ huy đội mõ thường do một người đứng tuổi, dùng tiếng sáo trúc điều khiển. Một hình thức điều khiển hết sức văn hóa.
Ði đầu đội mõ là mõ cá hay mõ lớn. Ðó là một con cá đẽo bằng gỗ, dài khoảng 60cm; để tạo ra âm thanh, bụng cá được đục rỗng. Mõ cả được đặt trên xe do một em nhỏ kéo, và một em cầm que gõ vào mình cá giữ nhịp. Khi gõ lên mình cá, em này cũng nhảy qua phải, qua trái, phía trước, phía sau, theo cách riêng.
Nếu như việc sử dụng mõ tre là kế thừa nhạc cụ dân tộc thì việc dùng mõ hình con cá lại là sự sáng tạo của giáo dân. Con cá đã trở thành vật thiêng, một phép lạ được ghi trong Kinh Thánh qua trình thuật Phúc Âm về 5 chiếc bánh và 2 con cá. Con cá xưa bên La Mã cũng là biểu tượng để những người Công giáo nhận ra nhau.
Múa mõ vốn là một trò trong sinh hoạt văn hóa dân gian của làng Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ xưa kia. Làng Việt Công giáo đã tiếp thu kế thừa đưa vào nghi lễ Công giáo. Tiếp thu kế thừa có sự sáng tạo như đã tạo ra mõ cá, có một tổ giữ trật tự... Ngày nay trong các làng Việt đã không còn trò múa mõ. Và may thay, nó được các làng Công giáo bảo lưu.
Múa trắc
Trong cuộc đi kiệu ở nhiều làng Công giáo thấy có múa trắc. Nhạc cụ trắc ra đời từ khi nào? Tên gọi của nó là gì? Hiện đối với chúng tôi vẫn chưa tìm ra lời giải đáp. So với nhạc cụ mõ thì nhạc cụ trắc còn đơn giản hơn nhiều. Ðó chỉ là hai thanh gỗ trước đây là gỗ trắc, nay thường là gỗ tre đực lấy ở phần dưới thân cây cho chắc và tạo tiếng gõ cho đanh; dài khoảng 10cm, dày 2x2cm. Khi gõ hai thanh vào nhau sẽ phát ra âm thanh lanh canh, khỏe khoắn. Mỗi hội trắc có khoảng 20 em tuổi từ 9 đến 13. Trắc thuộc vào ban nhạc Nam. Nếu trong xứ hoặc họ đạo có hội mõ thì tuổi và chiều cao các em ở hội trắc ít và thấp hơn các em ở đội mõ. Về ăn mặc, hội viên mặc đồng phục, quần áo Việt tự tạo, chân quấn xà cạp, đầu đội khăn có thắt dây quàng hoặc mũ chào mào.
Cũng như hộí mõ, hội trắc không gõ trắc một cách bình thường mà vừa gõ vừa múa. Ðộng tác gõ kết hợp với múa về đại thể cũng như múa mõ. Trắc được gõ ở trên đầu, ở trước ngực, ở sau lưng, ở khuỷu chân trái, ở khuỷu chân phải. Hội viên nhảy qua phải, nhảy qua trái, nhảy về phía trước, nhảy lùi về phía sau. Các động tác được làm đồng loạt, nhịp nhàng mềm dẻo vì do trẻ em múa. Tiếng lanh canh, lắc trắc họp lại rền vang hòa với tiếng mõ lốc cốc của hội mõ ở phía sau. Ðể hội trắc đi cho có hàng lối chỉnh tề, một tổ giữ trật tự cầm kiếm dàn hai bên nhảy theo cách riêng, kiếm đưa ngang tạo thành rào chắn làm hội viên nào nếu nhảy quá bị lập tức ngăn lại cho thẳng hàng lối.
Trắc và mõ đều là những nhạc cụ đơn giản, dễ làm, mỗi người tự tạo. Hết ngày lễ, người ta lại đem về, thường là gác trên bếp đế tránh mối mọt. Nếu gõ riêng từng nhạc cụ một, âm thanh là đơn điệu, khô khốc, nhưng khi nó được hợp âm, được các em nhỏ vừa gõ vừa múa thì âm thanh lại náo nhiệt rộn ràng, hình thức nhảy múa thật đẹp mắt.
Múa trống
Ở những xứ đạo có điều kiện, người ta thường bưng một chiếc trống cái rất to (trống đại) đường kính có thể từ l,5m đến 2m. Trống được đặt trên xe lăn để di chuyển cho dễ dàng, cũng có khi họ buộc vào hai đòn tre cho 4 người khiêng. Xung quanh tang trống, nhiều xứ đạo còn gá vào đó một số trống con. Ðánh trống đại thường là một nam giới trung tuổi, có sức khỏe. Vì là đánh trống đại nên dùi trống làm to, có thể được bọc vải đỏ ở đầu dùi và kết tua ở cuối dùi. Khi đánh, người đánh trống vừa đánh vừa nhảy múa. Dùi trống khi được đưa lên quá đầu, trước khi gõ vào trống người đánh trống gõ hai dùi vào nhau hoặc quay dùi trống lên không trung, luồn dùi qua khuỷu chân rồi mới gõ. Người đánh trống khi nhảy về phía trước, khi nhảy lùi về phía sau hoặc nhảy qua phải, qua trái, vừa nhảy vừa đánh trống theo những điệu, nhịp riêng. Vì vậy một số người gọi đó là đánh trống nhảy. Thực chất đó chính là múa trống. Một số xứ đạo nếu các họ đạo đều có trống đại có thể sẽ tổ chức thi múa trống. Họ đạo nào trống to, người đánh trống múa dẻo, ăn mặc đẹp, trang trí trống, dùi trổng đẹp mắt sẽ được giải.
Ngoài trống đại với hình thức múa trống, nhiều xứ đạo còn có trống cà rùng. Ðội trống thường có từ 6 chiếc trở lên. Ðể tạo ra nhiều âm thanh, trống được làm to, nhỏ khác nhau. Khi đánh tạo ra những âm thanh rùm rùm. Cũng có khi là đánh vào tang trống tạo ra tiếng lắc cắc, sau đó là tiếng rùm rùm.
PGS.TS Nguyễn Hồng Dương
Bình luận