Sắc thái Nam trong kiệu và chuông
Trong lễ hội Công giáo, giáo dân đã sử dụng cỗ kiệu truyền thống của lương dân. Kiệu có thể mua ở làng lương về dùng ở nguyên dạng hoặc sửa chữa đôi chút như bên trên gắn hình thánh giá, hoặc giáo dân mô phỏng dáng kiệu làng lương mà làm mới. Dân quen gọi là kiệu vàng hoặc kiệu Nam để phân biệt với kiệu tự tạo. Nhiều nghi trượng, bát bửu của làng lương cũng được dùng trong lễ hội Công giáo, có thể dùng nguyên mẫu hoặc có thể sửa đổi hay làm mới, nhưng mô phỏng. Ðể phân biệt với nghi trượng làng lương, nghi trượng làng giáo thường gắn trên đầu hình thánh giá. Một số nghi trượng hình lá đề thấy có ghi những chữ Hán như MẪU, THÁNH MẪU, PHƯƠNG DANH THÁNH MẪU. Nhưng cũng có thể chỉ là các chữ TRANG, NGHIÊM.
![]() |
Ngày lễ trọng, ngày lễ thánh quan thầy, hội làng Công giáo - xứ đạo ở nhiều làng đạo quanh khu nhà thờ, nhà xứ, cổng làng đạo có treo cờ ngũ hành, cờ hội của người Việt không Công giáo.
Nhiều nhà thờ xứ, họ đạo ở miền Bắc, miền Trung dùng chuông Nam[1] mà nguồn chủ yếu là chuông chùa. Các nhà thờ xứ, họ đạo mua chuông đúc sẵn ở các chùa Phật giáo. Những văn tự bằng chữ Hán, Nôm khắc trên chuông đã cho biết điều đó. Dưới đây xin được dẫn một số quả chuông thuộc loại này.
Trên tháp chuông cao 36 mét ở họ đạo Lưu Phương Trung, xứ Phát Diệm (Kim Sơn, Ninh Bình) có treo quả chuông cao 80cm, đường kính 50cm, nặng 80kg. Phần trên quả chuông ghi “Phúc Hương chung tự”. Như vậy đây là quả chuông có nguồn gốc từ chùa Phúc Hương. Ở họ đạo Tân An, xứ Phát Diệm treo một quả chuông Nam mà những dòng chữ Hán “Phúc Xương tự chung” khắc trên chuông cho biết chuông này có nguồn gốc từ chùa Phúc Xương. Quả chuông cao 60cm, đường kính 50cm, nặng 50kg. Chùa Phúc Hương, chùa Phúc Xương ở đâu, hai quả chuông được đúc vào thời gian nào hiện vẫn đang là ẩn số - những dòng chữ Hán trên chuông đã bị mài nhẵn - khả dĩ cho ta biết được điều đó.
Quả chuông ở nhà thờ họ đạo Tân Ðê, một họ đạo nhỏ, cách Tòa Giám mục Phát Diệm 5 km về phía Ðông Nam có lý lịch rõ ràng hơn.
Phía trên quả chuông khắc 4 chữ Hán Phạn Cung tự chung cho biết nguồn gốc của chuông ở chùa Phạn Cung. Về thời điểm đúc chuông, những dòng chữ Hán khắc trên chuông cho biết, chuông được đúc ngày 11 tháng 11 năm Bảo Ðại thứ chín (1934) (Nguyễn triều Bảo Ðại cửu niên, thập nhất nguyệt, thập nhất nhật). Những dòng chữ khắc trên chuông cho biết chùa Phạn Cung thuộc xã Tiên Hưng. Ðây là một xã thuộc huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, cách họ đạo Tân Ðê khoảng 15 km.
Ở gian cuối nhà thờ Ðức Bà, thôn Trung Lao, xã Trung Ðồng, huyện Nam Ninh, tỉnh Nam Ðịnh, có treo quả chuông chùa Ðức Long. Chuông cao 80cm, đường kính rộng 60cm, nặng 100kg. Chuông có hoa văn nổi hình long, ly cách điệu. Vòng quanh thân chuông khắc chìm những văn tự Hán, Nôm. Nổi bật là hàng đại tự Ðức Long chung tự. Ðể có mặt ở nhà thờ, chuông chùa Ðức Long phải trải qua một chặng đường không mấy bằng phẳng. Các cụ già của làng kể lại, chuông vốn của chùa Ðức Long, chẳng hiểu vì lý do gì, sư trụ trì đã mang cầm cố cho ông bà Tứ là giáo dân của xứ, nhưng hết hạn không thấy chuộc về. Trải thời gian, vào dịp khánh thành nhà thờ Ðức Bà xứ Trung Lao, ông bà Tứ dâng cúng chuông chùa cho giáo xứ. Sự kiện này được bia công đức dựng ở nhà thờ ghi lại: “Nhất bá hộ Vũ Ðình Tứ, cúng chuông đồng một quả”.
Xứ đạo Trường An (còn gọi là Phường Ðúc) thành phố Huế, một trong những xứ đạo cổ nhất của Tổng Giáo phận Huế có một quả chuông Nam. Chuông cao l,25 m, chu vi l,10 m, miệng loe l,45 m. Tai chuông là hai đầu Bồ Lao quay về hai phía. Mỗi đầu Bồ Lao được gắn với đỉnh chuông bởi hai chân Bồ Lao. Do chuông đúc xong, đánh không kêu, người ta đã cưa bớt một chân, nhờ đó chuông kêu bình thường. Loe chuông cao 7 cm, chạm hình sóng nước. Vòng tròn tiếp thứ hai đúc nối 4 cặp lưỡng long chầu nguyệt. Kỹ thuật đúc tinh xảo. Những cặp rồng uốn lượn uyển chuyển, giữa thân chuông có hai đường chạy song song bao quanh thân chuông với một khoảng cách 5 cm. Trong khoảng cách đó là hình chữ VẠN chạy dài, tạo hoa văn. Thân chuông chia làm 4 khoảng, có 4 núm hình mặt trời. Mỗi khoảng có những dòng chữ Nôm khắc chìm: XUÂN - HẠ - THU - ÐÔNG. Ở đoạn tiếp theo ghi dòng chữ: Giáng sinh một ngàn tám trăm chín mươi nhăm, tháng tư, ngày bốn (4.4.1895) Cẩn minh (kính làm bài minh).
Ở 4 phần chuông có 4 chữ Hán: Vạn Thiện Ðồng Quy (muôn sự tốt đẹp đều về một nơi).
Ở mỗi ô Xuân, Hạ, Thu, Ðông có 4 quẻ tương ứng, mỗi ô là một bài minh. Bài minh ở ô XUÂN cho biết đây là quả chuông được mua về. Xin được dẫn nguyên văn.
XUÂN
Minh lục tự ca.
Muôn số giáo hữu Trường An.
Một lòng ao ước định bàn sắm chuông.
Hàng ngày thờ phụng Chúa luôn
Ðể làm hiệu lệnh nên khuôn rập ràng.
Bao phen tìm kiếm hỏi han
Song chưa thành sự cho an sở nguyền.
Ất Mùi niên hiệu nhất thiên
Bát bách, cửu thập, ngũ niên tiết hè[2]
Có tin chuông bán vừa nghe
Trình cố bổn sở toan bề đi mua.
Cha con ý hợp tâm phù
Giúp cho tiền bạc vừa bưa sự thành.
Ðốc Sơ là một xứ đạo lâu đời thuộc địa phận Huế. Quả chuông Nam của nhà thờ cao 70cm, tai chuông cao 40cm, tổng cộng chiều cao của chuông là 1,10m. Tai chuông hình hai đầu Bồ Lao chung lưng, mỗi đầu quay về một phía. Chuông chia làm 4 ô. Từng ô có chữ Hán đúc nổi: long, ly, quy, phượng. Bốn chữ VẠN THỌ VÔ CƯƠNG đúc nổi, mỗi chữ gắn vào một ô, cùng với hình dáng quả chuông khiến ta nghĩ đến đây là chuông của Ðạo giáo, cũng có thể là chuông của một cơ sở thờ tự ở điện phủ của các vương quan triều Nguyễn, mặc dù trên chuông có những dòng chữ Hán: Giáo hội phụng cúng; hoặc Thiên Chúa đường chung (Quả chuông của Thánh đường đạo Thiên Chúa). Nếu những giả định trên là đúng, chúng ta thấy có thêm một xuất xứ mới của chuông Nam không phải của Phật giáo mà là của Ðạo giáo.
Ngoài ra còn một số quả chuông Nam khác có lẽ cũng mua ở chùa về treo ở nhà thờ, nhưng đã mài nhẵn chữ như ở nhà thờ xứ An Truyền (Truyền Nam) huyện Phú Vang, Thừa Thiên - Huế...
Có một quả chuông Nam hẳn có gốc tích chuông chùa vì quai chuông hình Bồ Lao cách điệu, nhưng thân chuông lại khắc chìm những dòng chữ Latinh theo 4 ô. Xin trích dịch một ô.
Excivitate Rodonansi
Benedixit ME
Klrinas[3] Ba et Mattrina. (dịch: Từ thành phố Rodonansi Klrinas Bá và bà vú của tôi đã làm phép rửa cho tôi).
Nguồn thứ hai của chuông Nam là do chính nhà thờ Công giáo đúc. Những dòng chữ trên đó cho ta thấy rất rõ. Như chuông Nam do giáo dân họ Lưu Phương Thượng (Kim Sơn - Ninh Bình) đúc ghi rõ Canh Thân tạo (Ðúc năm Canh Thân - 1920). Ðó còn là những quả chuông ở xứ đạo Bình Sa (Lai Thành, Kim Sơn, Ninh Bình); xứ đạo Ðốc Sơ (Thừa Thiên - Huế, họ đạo Phát Diệm Thượng; nhà thờ xứ An Vân (Thừa Thiên - Huế).
Ðặc biệt trên phương đình Tòa Giám mục Phát Diệm có quả chuông Nam do nhà thờ Công giáo đúc. Ở thân chuông vừa ghi chữ Hán vừa ghi chữ Latinh. Ðược biết khi đúc quả chuông này, linh mục chánh xứ Trần Lục có mời nhà sư chùa Ðồng Ðắc (gần xứ Phát Diệm) đến làm cố vấn kỹ thuật.
Việc đúc chuông Nam, kiểu chuông chùa, đặc biệt là việc đưa chuông chùa (Ðạo Phật), chuông quán (Ðạo Giáo) vào sử dụng trong nghi lễ Công giáo cho thấy từ rất lâu, người Việt Công giáo đã vượt qua những tư tưởng cho các tôn giáo là ngoại giáo, tà đạo. Một điểm cần lưu ý là trong hầu hết chuông Nam có nguồn gốc chuông chùa quai chuông là Bồ Lao cách điệu, thân chuông có thể là hình long, ly, cũng có thế là hình lưỡng long chầu nguyệt. Hình ảnh con rồng vốn bị người Công giáo ghét bỏ, song ở đây để thích nghi về mặt tâm thức, ngày nay ở một vài nhà thờ Công giáo xây mới thấy có đắp rồng uốn lượn trên nóc.
Sau Công đồng Vatican II, nhiều nhà thờ Công giáo trong một số thánh lễ có dâng hương, hình thức như dâng hương trong truyền thống người Việt. Dưới bàn thờ Chúa nhiều nhà thờ đặt lư hương để đốt hương trầm dịp lễ trọng. Trước Công đồng Vatican II, trong thánh lễ, chú giúp lễ lắc chuông chùm thì nay ở nhiều nhà thờ được thay bằng tiếng trống, tiếng chiêng…
PGS.TS Nguyễn Hồng Dương
_____________________________________________
1 Chuông kiểu chuông Chùa, nện vồ
2 Mùa hè 1895.
3 Chữ bị mờ.
Bình luận