Nhìn nhận và ứng xử của giáo dân đối với tổ tiên
Không chỉ đọc kinh cầu nguyện cho người đã khuất, tín hữu còn hát kinh, hoặc hát Thánh vịnh với cung giọng trầm buồn. Chẳng hạn:
Từ vực sâu u tối.
Con cầu xin Chúa, Chúa ôi.
Từ vực sâu thương đau.
Con đợi trông Chúa nhận lời...
Tuy không thực hành nghi lễ thờ cúng theo nghi lễ truyền thống của người Việt, tín hữu Công giáo không vì vậy mà không có những hình thức tưởng niệm riêng. Những hình thức này dựa trên tập tục cổ truyền, nhưng đưa nội dung tôn giáo - Công giáo - vào, như sau 3 ngày an táng thì đi thăm mộ, cầu kinh; giỗ 49 ngày: lễ và đọc kinh cầu nguyện; giỗ 100 ngày: lễ và đọc kinh cầu nguyện; Giỗ đầu (tiểu tường): đọc kinh cầu nguyện; Giỗ hết (đại tường) đọc kinh cầu nguyện.
![]() |
Hằng năm đến ngày giỗ, thân nhân người qua đời có thể có hai hình thức tưởng niệm chính: Xin lễ bàn thờ, hoặc xin lễ mồ.
Xin lễ bàn thờ là nghi lễ giản đơn. Gần đến ngày tưởng nhớ người qua đời, thân nhân gặp linh mục xin lễ. Trước thánh lễ, tên thánh người quá cố được viết vào một tấm bảng hoặc đọc lên để tín hữu đi dự thánh lễ được biết. Cuối thánh lễ, linh mục rao lại để cộng đoàn đọc kinh cầu nguyện.
Lễ chồng mồ là nghi lễ tưởng niệm trang trọng. Một sự lặp lại của buổi tang lễ trước đây.
Ngoài hai hình thức tưởng niệm ở nhà thờ, thân nhân người qua đời còn tổ chức tưởng niệm tại gia.
Hình thức có thể là làm cỗ bàn mời anh em họ hàng đến tham dự. Buổi tối gia đình tổ chức đọc kinh, cầu nguyện cho linh hồn người qua đời. Những gia đình lân cận được mời đến đọc kinh chung. Một trong những kinh bắt buộc phải đọc là Kinh cầu cho các linh hồn.
Ðối với những người không có con để lo việc cúng giỗ cầu nguyện hằng năm, trước khi qua đời, người quá cố thường nghĩ đến chuyện “cúng hậu” vào nhà thờ Công giáo. Cúng hậu có thể dưới nhiều hình thức như cúng tiền vàng, hoặc cúng ruộng đất cho nhà xứ. Nhà xứ hằng năm canh tác ruộng đất, lấy hoa lợi để xin lễ cho người cúng đã qua đời. Tùy theo số tài sản cúng hậu mà người cúng qua đời được có thánh lễ “chồng mồ” hay “lễ bàn thờ”.
Việc cúng hậu diễn ra ở xứ, họ đạo, làng Công giáo có từ bao giờ, đến nay chưa có tài liệu nào trả lời một cách chắc chắn. Một lần đi điền dã, chúng tôi phát hiện được một tấm bia cúng hậu ở xứ đạo Phùng Khoang.
Phùng Khoang là một xứ đạo lâu đời thuộc địa phận Hà Nội. Năm 1902, xứ đạo Phùng Khoang có 2.343 giáo dân. Hiện tại xứ đạo Phùng Khoang thuộc xã Trung Văn, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Nhà thờ xứ xây dựng năm 1910, dài 28 mét, rộng 12 mét, tháp chuông cao 20 mét Thánh quan thầy của xứ là Ðức Mẹ Mân Côi.
Trong khuôn viên nhà xứ, cạnh khu nhà dãy cũ có dựng một tấm bia đá. Bia có chiều cao lm50, chiều ngang 0m70, bề dày 0m20 đặt trên bệ đá có chiều cao 0m30, chiều ngang 0m90, bề dày 0m40. Ðỉnh bia hình mui luyện. Trán bia, diềm bia chạm nổi cao hơn thân bia 0m20. Chính giữa trán bia tạc hình Thập giá. Bốn góc là 4 tia mặt trời. Tỏa ra hai bên cạnh hình Thập giá là hai dây hoa lá cách điệu uốn lượn, về hai góc trán bia. Diềm bia chạy bao quanh 3 mặt bia, trên diềm bia là hoa lá cách điệu. Ðế bia gờ phía trên tạc hoa sen nhiều cánh chạy dài hết gờ. Lòng bia trên tiếp vào trán bia là 3 nửa vòng trong nhô cao có 4 chữ Hán chạm nổi Lập hậu bi ký.
Lòng bia chia làm hai phần, phần trên khắc chữ Hán - Nôm, phần dưới khắc chữ Quốc ngữ. Chữ Hán Nôm và chữ Quổc ngữ đều khắc chìm.
Phần chữ Hán - Nôm có nội dung như sau (trích dịch).
Trộm nghĩ: Ðạo Chúa Trời có từ trước vô cùng.
Lòng người không có cũ có mới
Người xưa khi có điều kiện tất phát tâm công đức để truyền lại cho đời sau. (Nay) có bà Vũ Thị Lý quê ở phủ Thọ Xương, huyện Phúc Lâm, tổng Thanh An, thôn Tiết Mỹ, từ đời Tự Ðức tự giữ lòng thành, kính mến Thánh đường, xuất gia tư 100 đồng, ruộng một mẫu, một sào, tám thước, chín tấc tại bản xã. Số ruộng giao cho hai giáp Ðông Thành và Nam Hòa canh tác thu hoa lợi. Hằng năm đến mùa đông (tháng 10 ngày 20 là ngày giỗ của bà Lý) thì hai giáp phải xin lễ (bàn thờ) theo lệ.
Phần tiếp theo ghi số ruộng cúng hậu, tên thửa ruộng, ở cánh đồng nào, diện tích bao nhiêu.
Phần cuối ghi, Thiên Chúa giáng sinh một ngàn tám trăm chín mươi ba (1893).
Phần chữ Quốc ngữ có nội dung sau: (trích).
Hà thành hộ thứ ba, phố Hàng Tre, số nhà 10, tên tôi là Vũ Thị Lãnh, có số ruộng tư các xứ là 16 thửa của cha mẹ tôi để lại phục canh ở làng Phùng Khoang, tổng Ðại Mỗ, phủ Hoài Ðức, tỉnh Hà Ðông, nay tôi lấy số ruộng này ký hậu cho cha tôi là Bảo Lộc Vũ Ðình Hưng, mẹ tôi là Anna Nguyễn Thị Tấn và ba em tôi là Bảo Lộc Vũ Ðình Chính, Phêrô Vũ Ðình Chung, Bảo Lộc Vũ Ðình Dũng vào giáp giáo làng Phùng Khoang. Hằng năm giáp phải xin 24 lễ bàn thờ cầu cho cha mẹ và 3 em tôi như ý tôi đã chỉ về sau mãi mãi; Còn thừa lợi bao nhiêu thì công giáo chi như tùy ý.
Tiếp theo là thống kê 16 thửa ruộng cúng hậu.
Phần cuối ghi: Làng Phùng Khoang giáo giáp chức sắc quan viên, lập bia ngày 5-7-1927.
Như vậy ít nhất vào cuối thế kỷ XIX ở xứ họ đạo, làng Công giáo đã có hình thức cúng hậu vào nhà thờ Công giáo. Hình thức này được duy trì đến giữa thế kỷ XX (ít là đến năm 1927).
Vào dịp lễ cầu các tín hữu qua đời (2.11), giáo dân thường lo tu sửa lại Vườn Thánh, tu sửa mộ chí thân nhân, linh mục, tu sĩ. Buổi chiều 2.11, một thánh lễ được diễn ra trong nhà thờ để cầu nguyện cho các linh hồn. Sau đó linh mục cùng giáo dân từ nhà thờ xứ ra Vườn Thánh. Dọc đường giáo dân đọc kinh cầu nguyện. Sau đó tín hữu tản đi thắp nến trên mộ người quá cố là thân nhân...
Vào ngày lễ cầu cho các tín hữu qua đời, những người đi làm ăn xa, dâu, rể thường tề tựu về quê tham dự thánh lễ để rồi sau đó ra Vườn Thánh nhận mộ họ hàng, các gia đình thường làm cơm thân mật để anh em thân thuộc có dịp gặp gỡ nhau.
Ngoài ra vào dịp đầu Xuân, các tín hữu ra Vườn Thánh tảo mộ, tưởng nhớ người qua đời. Từ rất lâu, ngày Mồng Ba Tết là ngày Giáo hội Công giáo Việt Nam chọn là ngày kính nhớ ông bà tổ tiên và cử hành thánh lễ.
PGS.TS Nguyễn Hồng Dương
Bình luận