Nhà thờ Thủ Ðức là một trong những ngôi thánh đường lâu đời ở Sài Gòn. Màu thời gian như thấm nhuộm lên mọi ngóc ngách của nơi đây, từ nét kiến trúc cổ kính cho đến những hiện vật tưởng chừng ngày một nhạt phai. Nơi đây vẫn còn lưu giữ nhiều hiện vật như 14 đàng Thánh Giá, giếng rửa tội… có tuổi đời cả hơn trăm năm, như những chứng tích thầm lặng của hành trình đức tin dài đằng đẵng của bà con trong vùng.
Ngôi thánh đường được xây trên gò đất cao
Theo truyền khẩu của các cụ cao niên, giáo dân vùng phụ cận Thủ Đức từ xưa đã rất sùng đạo. Lúc chưa có nhà thờ, khi họ đạo chưa thành lập, mỗi cuối tuần cứ đến ngày Chúa nhật, họ lại kéo nhau lên tận Lái Thiêu để dự lễ. Trẻ con sinh ra thời ấy do những ông biện ông câu - đã được bề trên ủy thác - thực hiện nghi thức gia nhập Hội Thánh, chờ nhiều năm sau đó, khi có điều kiện, sẽ được các linh mục cử hành phép Rửa chính thức theo luật định. Giáo dân cũng bàn nhau cất lên một nhà nguyện đơn sơ bằng cây, lợp lá, để có nơi lui tới kinh nguyện, nâng đỡ đời sống tâm linh hằng ngày. Ngôi nguyện đường nằm bên làng Phong Phú, cách nhà thờ Thủ Đức hiện nay độ chừng 3 cây số. Dầu vậy, có nhà nguyện rồi nhưng vẫn chưa có linh mục đồng hành thường xuyên, chỉ thi thoảng linh mục Boutier, lúc đó là cha sở họ Bà Rịa, về Phong Phú ban các phép bí tích, thường là vào những dịp lễ lớn như Giáng Sinh, Phục Sinh... Theo Sổ Rửa Tội còn lưu tại giáo xứ thì lần đầu tiên cha Boutier thực hiện “nghi thức bổ túc bí tích Rửa Tội” là vào ngày 4.8.1879, cho bà Maria Quí. Cũng trong năm này, họ Phong Phú - Thủ Đức được xem là chính thức thành lập, thời Đức cha Isidore Colombert, nhưng một năm sau, năm 1880, cha Boutier mới được bề trên bổ nhiệm về làm cha sở họ Thủ Đức, chính xác là họ Phong Phú. Từ đó trở đi, họ đạo liên tục phát triển, số giáo dân ngày càng đông, bà con không còn phải lên tận Lái Thiêu đi lễ. Vùng Thủ Đức bắt đầu được khai phá vì trước đó phần lớn là rừng, dân cư cũng ngày càng đông đúc, nên cha sở quyết định dời nhà thờ về vị trí như hiện nay, vào khoảng năm 1889, trên mảnh đất do bà Agatha Nguyễn Thị Tứ, mẹ vợ của ông Huyện Sĩ Lê Phát Đạt tặng. Trong nhà thờ ngày nay vẫn còn bia ghi tên bà.
Nếu đi từ hướng đường Kha Vạn Cân về Võ Văn Ngân, từ xa xa đã dễ dàng nhìn thấy nhà thờ Thủ Đức, bởi được xây trên gò đất cao hơn mặt đường 4 mét. Theo linh mục Aloisio Lê Văn Liêu, cha sở cũ của họ đạo thì: “Nhà thờ Thủ Đức được xây vào thời thuộc Pháp, lúc đó bà Tứ cho đất, họ chọn gò cao với mong muốn là mỗi lần đi ngang con đường này đều phải ngước nhìn lên nhà thờ, như một cách hướng lòng lên Chúa. Đây là lời của nhiều cha sở trước tôi kể lại”.

Vết xước thời gian
Thánh đường Thủ Đức là một công trình kiến trúc lâu đời. Ban đầu, nhà thờ mang màu hồng phấn nhẹ, nhưng qua nhiều đời cha sở, giờ là màu xám, đậm phong cách phương Tây. Về lịch sử xây dựng và tu bổ, nghe đâu từng trải qua nhiều giai đoạn. Giai đoạn đầu là chỉ có phần giữa của thánh đường hiện tại. Mãi đến năm 1931, khi cha Phêrô Thà về làm phó cho cha Sắc (Cransac), hai cánh của nhà thờ mới được xây dựng thêm ở hai cửa hông, tạo thành hình Thánh Giá. Đến năm 1935, khi cha Gioan Baotixita Doan về làm phó cho cha Sắc, nhờ tài ngoại giao, ngài đã tìm được vật liệu để kéo dài hai cánh của thánh đường xuống tận lầu chuông. Cha Doan khi đó cũng đã xuống tận Bến Tre để thu gom vỏ dừa, xay ép làm trần nhà cho phần giữa nhà thờ. Từ đó về sau, họ đạo không trải qua thêm lần nào xây dựng lại và đã ở trên gò đất ấy gần một thế kỷ rưỡi.
Như bao nhà thờ cổ khác, Thủ Đức cũng có những hiện vật trăm tuổi, đi cùng lịch sử hình thành của mình, dù không còn nhiều. Linh mục chánh xứ đương nhiệm Gioan Baotixita Bùi Bá Tam Quan giải thích: “Mặc dù là một xứ đạo lâu đời, nhưng do nhiều yếu tố tác động trong dòng chảy lịch sử, những đồ vật cổ xưa của xứ bị mai một không nhỏ. Phần lớn là vì giáo dân trước đây chưa nhận thức được giá trị của các hiện vật, nên không lưu giữ và bảo tồn”. Lâu nhất và quý nhất có lẽ là cuốn Sổ Rửa Tội giai đoạn đầu, được lưu giữ từ năm 1879. Dù đã qua hơn một thế kỷ, cuốn sổ vẫn còn nguyên vẹn, bề ngoài đã rất cũ kỹ, nhiều trang bị nhòe mờ theo thời gian. Bên trong, toàn bộ thông tin đều được ghi bằng tiếng Pháp, dễ hiểu vì Thủ Đức do các cha người Pháp quản lý và điều hành thuở ban sơ. Sự tồn tại của cuốn sổ là một minh chứng sống động về quá trình phát triển đức tin của một họ đạo, đóng vai trò như cuốn gia phả của làng xóm Việt Nam, nhắc nhớ người ta về cội nguồn và những lớp lớp tiền nhân. Trong nhà thờ cũng còn một chiếc giếng rửa tội hoa văn giản đơn, đậm tính Nam bộ. Chính xác, đây là một chiếc khạp (lu nhỏ) làm bằng đất nung, tráng men gốm Lái Thiêu, rất quen thuộc và gần gũi với người miền Nam bộ. Có cả cái gáo đi kèm như thường thấy ở nhà vườn nông thôn, cũng đã mòn vẹt với những vết xước như là dấu ấn đức tin của nhiều thế hệ con dân Thủ Đức. Ngoài ra, 14 chặng đàng Thánh Giá cũng xưa cũ lắm, làm bằng gốm. Đây là chất liệu ít thấy phương Tây dùng cho việc thiết kế các chặng đàng Thánh Giá, nên nếu đó là sản phẩm được đặt làm riêng từ những làng gốm Lái Thiêu hay Biên Hòa nức tiếng thời bấy giờ, thì cũng là những hiện vật quý giá và độc đáo, thậm chí là độc bản.

Ngôi thánh đường cổ, những ký ức cũ, và độ dày của số năm hiện diện, nhà thờ Thủ Đức ngày nay nhìn ra con đường Phạm Văn Đồng hiện đại bậc nhất thành phố, tạo cảm giác quá khứ đang giao thoa với hiện tại, qua từng dòng thời gian, và Tin Mừng đã và vẫn lan tỏa đến muôn nơi.
Hà Giang
Bình luận