Oái ăm trong chữ nghĩa

1.

Ắt hẳn nhiều người từng có dịp đi chơi nơi khu du lịch Xẻo Quít (Đồng Tháp). Không khí thoáng đãng, mát rượi. Làm nghề báo, thành thử những nơi như Xẻo Quít không còn lạ gì hết. Tôi lại viết trong lĩnh vực văn hóa ngh thut, ưa tìm tòi “chữ nghĩa”, không khỏi thắc mắc sao gọi “Xẻo”, là một “thẻo” đó chăng?

Kỳ thực, theo “Đại Nam quc âm t v” của Paulus Của, phân định rõ rành: XẼO (dấu ngã) con rch nh (chú ý: trong ký t “bộ thủy” thuộc về nước); trong khi đó, XẺO (dấu hỏi) nghĩa là cắt bớt.

Viết đúng, phải là “XẼO Quít”.

Nhưng người miền Nam thường mắc lỗi phát âm không phân biệt thanh điệu, như thanh điệu dấu ngã đọc thành thanh điệu dấu hỏi. Người trong Nam quen đọc thành dấu hỏi “Xẻo” rồi viết như vậy luôn (lẽ ra gọi “Xẽo”). Đây là điều oái ăm, nhưng … oái ăm trong ngôn ngữ thì không dễ sửa chút nào. 

Xeo Quit.jpg (1.28 MB)
Khu du lịch Xẻo Quít, Đồng Tháp

2.

Vấn đề phát âm của vùng miền ảnh hưởng đến cách viết. Như câu chuyện lẫn lộn giữa “sử dụng” và “xử dụng”.

Nói nào ngay, “sử”, “xử” đều có gốc gác là âm Hán - Việt. Ngặt cái, trong chữ Hán, có nhiều ký tự khác nhau mà đồng âm (âm Hán - Việt); rồi mỗi ký tự lại có nhiều nghĩa, nếu thiếu chú ý là dễ rơi vào “râu ông cắm cằm bà”.

Chẳng hạn, cùng đọc “sử” các t (trong “lịch sử”), (nghĩa là “ngựa chạy nhanh”, “lái xe, tàu thuyền”), và ký tự 使 t được đề cp trong bài này.

Cùng đọc “xử” t (nghĩa là “cái chày”), và ký tự t được đề cp trong bài này.

Trong Đại Nam quấc âm tự vị (Huỳnh Tịnh Của) và nhiều từ điển nữa, chú ý: hết thảy từ điển đều ghi “sử dụng使用 (âm Hán - Việt), khi chuyển qua Nam âm (thuần Việt) gọi là “DÙNG”. Gọn bâng.

Như nêu trên, “SỬ” ở đây được viết 使 . Nhưng có trang web, trên mng, ghi “sử” ... , là sai trật quá sức, bởi nghĩa là “ngựa chạy nhanh”, “lái xe, tàu thuyền”!

Trong khi đó, “XỬ” xài t khác nghĩa cũng khác, là động từ chỉ lối hành xử, ứng xử của con người trong xã hội. Ta hay nói “cư xử” 居處, “xử trảm” 處斬 ...

Giữa “SỬ” “XỬ”, nghĩa khác nhau, đâu ra đó. Nên trong các từ điển đều ghi “SỬ DỤNG” (使用), không “xử dụng”.

Tôi không khỏi thắc mắc, vì sao “SỬ dụng” lại có người nhầm lẫn ghi thành “xử dụng”? /s/ bị nhầm qua /x/?

Trong phát âm của nhiều người ngoài Bắc (không phải tất cả), âm /s/ đọc thành /x/, nói quen nên khi viết cũng “x” luôn. Người gốc Bắc vào Nam sinh sống, kể cả hồi trước năm 1975, cũng mắc phải cách phát âm rồi viết như vậy, viết luôn trong sách (nên người miền Nam đọc sách rồi viết thành “x” vy). 

3.

 Còn nữa, “chia sẻ”, “chia xẻ”? Chữ nghĩa trong tiếng Việt chúng ta, tuy “nhức đầu” chút chút, nhưng thú vị.

“XẺ”, trong “chia xẻ”, là từ toàn thể tách ra các phần tử nhỏ hơn, như “cưa xẻ”, “chia xẻ thịt cá”. Tức, khi “XẺ” thì kết quả sau đó là ít đi, giảm đi.

“XẺ” thuộc về Nam âm (thuần Việt), được viết bằng chữ Nôm: 𨦁 (khi chúng ta chưa dùng chữ Quốc ngữ).

Còn “SẺ” (trong “chia sẻ”), cũng thuộc Nam âm (thuần Việt), viết bằng chữ Nôm khác, là 𢩿, nghĩa cũng khác!

“SẺ” được dùng trong cách nói như “chia sẻ tri thức”, “chia sẻ bài viết” ... Khi “SẺ”, trong “chia sẻ tri thức” thì tri thức có bị giảm đi, ít đi không? Không. Mà kết quả sẽ là cộng hưởng.

Mạn phép đưa hai ví dụ sau, cho tỏ tường.

Ví dụ 1: Một tác giả có 1.000 cuốn sách, phát hành chia XẺ được 900 cuốn => kết quả tác giả chỉ còn 100 cuốn (hụt đi, giảm đi). Nhưng, lượng tri thức được chia SẺ thì tăng lên, chí ít tăng thêm 900 người đọc (và còn nhiều hơn nữa).

Có thể nói: Chia XẺ dùng cho những vật hữu hình. Chia SẺ dùng cho những giá trị vô hình, giá trị tinh thần.

Ví dụ 2: Chúng ta nói, “chia ngọt SẺ bùi”, “chia SẺ niềm vui”, “chia SẺ nỗi buồn”. Niềm vui, nỗi buồn được chia SẺ, tức tăng thêm SỰ ĐỒNG CẢM trước niềm vui, nỗi buồn của ai đó.

Chớ không phải... “chia xẻ nỗi buồn” (dùng “xẻ”) để cho bớt buồn; ở đây - nhấn mạnh - “chia sẻ” (dùng “sẻ”) là tăng thêm sự đồng cảm trước nỗi buồn; còn nỗi buồn có bớt hoặc còn buồn thảm thê hơn nữa là tùy vào tâm lý của chủ nhân nỗi buồn.

Nữa, vì sao “chia sẻ tri thức” lại có người ghi thành ... “chia xẻ tri thức”? /s/ bị nhầm qua /x/? Trường hợp này cũng y chang trường hợp “sử dụng” thành “xử dụng” nêu trên. Do phát âm ca vùng min nh hưởng đến cách viết.

Dù sao, trong tự điển đã rạch ròi hai cách viết “chia SẺ”, “chia XẺ”, không nên dùng “nhập cục” làm mt.

*

Làm nghề viết báo là sống bằng cái nghiệp dùng ch dùng nghĩa. Vì vậy lúc này lúc kia phát hin ra nhng điu oái ăm, xin ghi lại. Nói nào ngay, oái ăm trong ngôn ngữ thì… không dễ sửa chút nào. 

“NÔM” NGHĨA LÀ GÌ?

Trong bài “Oái ăm trong chữ nghĩa”, có nói đến Nam âm, được ghi bằng chữ Nôm. Vậy NÔM nghĩa là gì? Cũng thường được nghe giải thích, “Nôm” tiếng ca người phương Nam (nước Vit phương Nam, để phân định vi người nước Trung Hoa phương Bc), thm chí còn nhn mnh “Nôm” “Nam”. Bởi NÔM , trong ký tự này có “nam” , nên cách gii thích “nôm” = “nam” cũng bi da theo b ni ca mt ch ra.

Tuy nhiên, giải thích như vậy gặp phải thắc mắc: nếu “nôm” “nam”, vậy sao không gọi “chữ NAM” cho rồi, mắc gì gọi “chữ Nôm”?

Chúng ta vẫn thường có cách nói gọi là “nói nôm”, nghĩa là nói mộc mạc, không kiểu cách và quy phạm. Rồi, “xin diễn nôm như sau...”, nghĩa là xin diễn giải những điều chung nhứt, dễ hiểu (dễ lĩnh hội) chớ không quá tỉ mỉ.

Tôi tìm đến “Đại Nam quc âm t v” của Huình Tịnh Của, trong đó giải thích “Nôm” nghĩa là thổ âm (là tiếng bản địa). Chằng hạn, trong đời sống ngôn ngữ ở vùng núi phía Bắc có “Nôm Tày”, nghĩa là tiếng của người Tày bản địa.

Trong “Đại Nam quc âm t v”, “NÔM” còn nghĩa này na thit ly k, bt ng: “nôm vợ” ( 𡢼)! Khi ai đó chịu bảo bọc người lỡ mang thai (kêu bằng là “không chồng mà có con”), đưa về làm vợ hẳn hoi, gọi là “nôm vợ”.

Mới hiểu rằng, đừng trói một chữ chỉ có mỗi một nghĩa, một chữ mang nhiều nghĩa là điều bình thường. NÔM, như “diễn nôm”, “nôm vợ”... thì không dính dáng gì đến cái gọi là “(phương) nam” cả.

Liên quan đến hiện tượng ngôn ngữ: chữ “NÔM”, tiếng “NÔM” - đây, nghĩa là tiếng thổ âm (bản địa). Tiếng bản địa (tạo thành nền tảng, tạo thành “basic words” theo cách phân định trong ngành ngôn ngữ học) của người Việt, tức là “tiếng Nôm” của người Việt./. 

NGUYỄN CHƯƠNG

Từ khoá:
Chia sẻ:

Bình luận

có thể bạn quan tâm

Chiếc bánh mùa trăng tròn
Chiếc bánh mùa trăng tròn
Những nụ cười tươi tắn của trẻ em làng Konskoi, thuộc giáo xứ Đak Tân, giáo phận Kon Tum, khi đón nhận những chiếc bánh Trung Thu được gởi lên từ miền xuôi, mang theo yêu thương đến với các em.
Món quà của những ngày yếu đuối
Món quà của những ngày yếu đuối
Lớn lên trong môi trường Công giáo, tôi đã quen với những lời dạy, những lễ nghi,  nhưng tôi chưa thể thực sự sống với điều đã học.
Công giáo Việt Nam  và văn hóa dân tộc
Công giáo Việt Nam và văn hóa dân tộc
Khi quy chiếu theo triết lý Âm - Dương, nền tảng của các nền văn hóa Á Đông, thì văn hóa Việt Nam thiên về âm tính.
Chiếc bánh mùa trăng tròn
Chiếc bánh mùa trăng tròn
Những nụ cười tươi tắn của trẻ em làng Konskoi, thuộc giáo xứ Đak Tân, giáo phận Kon Tum, khi đón nhận những chiếc bánh Trung Thu được gởi lên từ miền xuôi, mang theo yêu thương đến với các em.
Món quà của những ngày yếu đuối
Món quà của những ngày yếu đuối
Lớn lên trong môi trường Công giáo, tôi đã quen với những lời dạy, những lễ nghi,  nhưng tôi chưa thể thực sự sống với điều đã học.
Công giáo Việt Nam  và văn hóa dân tộc
Công giáo Việt Nam và văn hóa dân tộc
Khi quy chiếu theo triết lý Âm - Dương, nền tảng của các nền văn hóa Á Đông, thì văn hóa Việt Nam thiên về âm tính.
Bình Dương tên gọi phường xã mới gắn với địa danh xưa (kỳ 4)
Bình Dương tên gọi phường xã mới gắn với địa danh xưa (kỳ 4)
Từ 1808 đã có địa danh Phú Lợi, là tên một làng (thôn) thuộc tổng Bình Chánh, huyện Bình An, phủ Phước Long, trấn Biên Hòa.
Vẻ đẹp theo năm tháng
Vẻ đẹp theo năm tháng
Tòa Giám mục Kon Tum là một trong những công trình kiến trúc và văn hóa nổi bật tại thành phố Kon Tum (cũ), điểm đến lý tưởng cho những ai đam mê tìm hiểu về lịch sử, văn hóa, và kiến trúc độc đáo của miền đất cao nguyên. 
Thu về nhớ “trong gia đình”
Thu về nhớ “trong gia đình”
Trung Thu năm đó, tôi có chuyến đi thiện nguyện với nhóm sinh viên ở huyện Bình Chánh (TPHCM), chỗ này xa trung tâm đâu chừng hai chục cây số, vậy mà xe đi hơn 2 tiếng đồng hồ mới tới nơi.
Công giáo Việt Nam và văn hóa dân tộc
Công giáo Việt Nam và văn hóa dân tộc
Ngày bổn mạng (quan thầy), nghi thức rước kiệu thường được cử hành trước thánh lễ theo hình thức của cuộc rước nhập lễ (proscessio).
Bình Dương tên gọi phường xã mới gắn với địa danh xưa (kỳ 3)
Bình Dương tên gọi phường xã mới gắn với địa danh xưa (kỳ 3)
Địa danh Bình Dương xuất hiện ở Việt Nam vào khoảng năm 1692, sau khi Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh thiết lập hệ thống quản lý hành chánh cho vùng đất phía Nam này.
Giờ đố vui giáo lý
Giờ đố vui giáo lý
Bên cạnh các hoạt động vui chơi, thời gian thi đố vui giáo lý còn mang đến niềm vui cho các em thiếu nhi khi có cơ hội thể hiện kiến thức đã học, đồng thời phát huy tinh thần chung sức của đội nhóm.