Đời linh mục của tôi chỉ gắn bó với một xứ đạo - giáo xứ Vườn Xoài. Thực ra, tôi không có quyền chọn lựa, nhưng là do xếp đặt của bề trên, và một chút duyên nữa.

Mùa hè năm 1962, lúc còn là một Đại chủng sinh, tôi được chỉ định về giúp xứ Vườn Xoài vì không còn chỗ nào khác để chọn. Nhưng không ngờ, chính nơi đây đã định hướng đời tôi, vì ngoài nhiệm vụ của một thầy giúp xứ, tôi được sống và làm việc với một số linh mục có nhiều trăn trở và đang cổ vũ cho sự canh tân trong Giáo hội. Có thể nói Vườn Xoài hứng làn gió mới của Công đồng Vatican khá mạnh mẽ, từ canh thức cầu nguyện cho các Giám mục Việt Nam đi dự hội nghị, đến triển lãm, hội thảo, in và phổ biến các tài liệu về Công đồng Vatican II qua tuần báo Sống Đạo, rồi phong trào Thanh Lao Công, Thanh Sinh Công, các phong trào của giới trẻ cũng nở rộ tại họ đạo này… Tất cả góp phần tác động và định hướng đời linh mục của tôi.

Sau ngày thụ phong linh mục 14.5.1968, tôi cũng nhận được bài sai về làm phó xứ Vườn Xoài, dĩ nhiên lần này không còn nhiều lo sợ như trước, và chẳng bao lâu sau, tôi lại nhận được một bài sai mới làm tuyên úy Thanh Lao Công địa phận Sài Gòn. Cuộc đời của tôi từ đây càng ngày càng gắn bó với người lao động. Đầu tiên là những buổi họp để tìm hiểu thánh ý Chúa trong cuộc sống lao động, rồi tham gia đình công, biểu tình với người lao động và sinh viên học sinh. Có lúc tôi đã vô tù vì quyền lợi của người lao động. Tôi cũng từng đi làm công nhân hốt rác hạng D ở sở Vệ sinh Đô Thành cho tới khi bị sa thải vào đầu năm 1975.
Nhiều người lao động phấn khởi và hãnh diện vì trong cuộc đời tăm tối của họ cũng có một linh mục chia sẻ số phận. Những người xa lạ với Giáo hội bắt đầu đến tiếp xúc với tôi. Và vì thế mà chẳng bao lâu sau, tại thành phố này có một linh mục làm chủ tịch của tổ chức của người lao động cánh tả, trong đó có những người hoạt động Cách mạng. Cũng trong bối cảnh này, tôi trở nên gần gũi với các nhà chùa, các thánh thất, để cùng họ tổ chức cứu đói và đòi hòa bình. Xem ra, tôi đã hoạt động đại kết một cách tự nhiên, xuất phát từ những việc làm chung để lo cho người nghèo và chống chiến tranh.
Sau năm 1975, tôi tham gia Liên hiệp Công đoàn thành phố, làm Phó Chủ tịch tổ chức này, cũng là để lo cho đời sống người lao động. Những năm về sau, tôi là thành viên Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam và Hội đồng Nhân dân TPHCM, là Đại biểu Quốc hội, thành viên Ủy ban Đoàn kết Công giáo các cấp… Trong giai đoạn đó, do thực tế lịch sử, tôi mong muốn mình là chiếc cầu nối giữa chánh quyền cách mạng - mà tôi ít nhiều có hiểu biết - với người Công giáo. Quả thực, qua những công việc làm được ở thời kỳ này, tôi đã cảm nghiệm được rất sâu sắc những khó khăn, trăn trở và niềm hy vọng của một Giáo hội đang chuyển mình.
Cứ thế, cuộc đời linh mục của tôi có vẻ như sẽ đi theo những công việc có tính cách “bên ngoài” của Giáo hội, thì một ngày, Đức Tổng Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình sai tôi trở lại Vườn Xoài làm chánh xứ thay thế linh mục Phaolô Trần Viết Thọ. Vâng lời vị cha chung, tôi đã trở lại Vườn Xoài ngày 10.5.1980.
Về Vườn Xoài, tôi biết được mơ ước lâu ngày của giáo dân nơi đây là có một ngôi thánh đường để có chỗ cầu nguyện tươm tất và xứng hợp, nhưng gần như họ có cảm giác ước mơ đã xa dần sau 1975. Tôi đã tìm cách đề đạt nguyện vọng với các vị lãnh đạo thành phố, và giáo xứ Vườn Xoài đã được phép làm nhà thờ mới vào cuối năm 1981. Nhà thờ Vườn Xoài tuy bé nhỏ nhưng có thể nói là nhà thờ đầu tiên được xây dựng sau giải phóng ở miền Nam, tạo nên niềm phấn khởỉ và hy vọng lớn trong cộng đồng Công giáo Việt Nam. Sau đó, nhân dịp kỷ niệm 10 năm xây cất thánh đường vào tháng 11.1991, Hội đồng Giáo xứ Vườn Xoài thấy cần phải có ngôi nhà mục vụ hầu có đủ chỗ cho các sinh hoạt. Quyết tâm thì có đó, nhưng phải một năm sau, ngày 24.11.1992, vào lễ kính Các Thánh Tử đạo Việt Nam, quan thầy của giáo xứ, chúng tôi mới khởi công được. Dầu vậy, tôi thấy rằng trong trường hợp của tôi, việc xây dựng nhà thờ hay nhà xứ lúc đó tuy có khó nhưng vẫn còn dễ, xây dựng cộng đoàn giáo xứ để bảo vệ sự hiệp nhất mới thật sự là khó, nhất là do hoàn cảnh tôi lại phải đảm đương nhiều vị trí bị đặt vấn đề trong Giáo hội.

Nhìn lại đời linh mục, tôi thấy quả là một chặng đường vừa hấp dẫn, vừa đầy gian lao thử thách, đầy sáng tạo và lý tưởng, nhưng cũng đầy cạm bẫy và hiểm nghèo, mà theo cách nói của Thư chung Hội đồng Giám mục Việt Nam năm 1980 là “Lịch sử luôn pha lẫn ánh sáng và bóng tối, cũng như đời sống những người con của Chúa vẫn có cả ân sủng và tội lỗi”. Cũng trên chặng đường ấy, tôi đã cảm nghiệm ra Chúa đã đến với tôi để ban thêm nghị lực, sự nâng đỡ và cả những trách móc. Tôi đã gặp biết bao ân nhân, bạn bè và cả những người chống đối mình, khiến cho cuộc đời linh mục vừa là nguồn an ủi, phấn khởi, vừa là cuộc chiến đấu dai dẳng. Nhưng chính nhờ đó, bản lãnh riêng của tôi được hình thành. Khi lãnh nhận chức linh mục, tôi được dạy: Giáo hội phải đồng hành với nhân loại; các giám mục Á châu thì hướng dẫn: Giáo hội không phải là một ốc đảo, Giáo hội phải là Giáo hội của người nghèo. Những lời ấy dường như đã trở thành máu thịt trong hành trình linh mục của tôi.

Chịu chức linh mục trong bối cảnh có những chuyển biến, sau đó là các bước ngoặt lớn trong xã hội và Giáo hội, tôi lại thường xuyên bị đặt vào trung tâm của những điểm nóng của cuộc sống, nên đã có những chọn lựa về cách làm chứng và loan báo Tin Mừng mà bản thân thấy thích hợp và ích lợi cho đất nước, cho Giáo hội, cho người dân, đặc biệt là dân lao động nghèo. Với ơn Chúa, tôi đã làm được nhiều việc vượt quá khả năng và sức lực của mình, trong sự khiêm tốn, lòng nhân ái và khoan dung với mọi người. Tôi muốn nói lên lời cám ơn đến những nơi, những người đã dẫn đưa tôi đến chức linh mục và giúp tôi đứng vững trong Ơn gọi. Đặc biệt tôi xin cám ơn các Đức cha của giáo phận qua nhiều thời kỳ; các cha giáo và thầy dạy ở Tiểu chủng viện Chân Phước Liêm, Tiểu chủng viện Bùi Chu, trường Nguyễn Bá Tòng; các cha giáo Đại chủng viện Lê Bảo Tịnh và ĐCV Thánh Giuse. Qua sự dìu dắt từng bước của biết bao thế hệ các cha, các thầy… mà tôi có được ngày hôm nay, có biết bao vị đã dày công rèn luyện và trao cho tôi cả một gia sản đức tin và trí tuệ, trong đó hai cha Joakim Nguyễn Hữu Phúc và Augustine Trần Ngọc Ruệ đã chẳng thấy ngày tôi bước lên Bàn Thánh.
Tôi cũng nhớ đến cha mẹ của tôi đã khuất bóng, những người đã sinh thành. Vì ba tôi mất sớm, mẹ là người luôn dõi theo từng bước tu trì của tôi. Cuộc đời dấn thân của tôi có lúc là niềm hy vọng, lúc là triều thiên, nhưng cũng nhiều lúc là thánh giá cho mẹ nhưng vẫn luôn thương, vẫn ở bên cạnh tôi.
Tôi đặc biệt cám ơn Đức Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình, người đã ban cho tôi chức linh mục, đã nâng đỡ và ủi an khi tôi gặp khó khăn, đã lắng nghe và khích lệ khi tôi muốn lùi bước. Cám ơn những anh em linh mục đoàn trong giáo phận, những anh em linh mục xa gần, đã luôn nghĩ đến tôi, dù có thể có người hiểu hoặc chưa hiểu hết về công việc và chọn lựa của tôi, nhưng vẫn luôn xem tôi là anh em.
Như tôi đã nói, cả đời linh mục tôi chỉ gắn với có một họ đạo Vườn Xoài. Vì thế mà tôi cũng xin tri ân các cha của họ đạo chánh và phó qua các thời kỳ ở Vườn Xoài, các nữ tu và nhất là anh chị em giáo dân nơi đây, hết thảy đã tạo nên lịch sử đời tôi.
Cuối cùng, tôi xin cảm tạ Chúa luôn quan phòng trong cuộc đời linh mục của tôi, và cho tôi, dù qua bao nhiêu thử thách, vẫn được đồng hành cùng anh em linh mục, giữa đoàn dân Chúa, giữa các bạn bè…
Tất cả là hồng ân…
(Trích tự sự Đời Linh Mục của cha Phêrô Phan Khắc Từ)
Bình luận