"...Dáng dấp và tâm hồn đơn của các em nhỏ dường như thích hợp để thay mặt cộng đoàn tiến hoa lên Đức Mẹ..."
Người Kitô hữu Việt Nam có lòng kính mến Đức Mẹ cách đặc biệt: kính mến dưới hình thức cá nhân hay tập thể; kính mến qua những việc đạo đức, tôn sùng hoặc những cử hành phụng vụ.
Để đáp ứng tâm tình này, lịch Công giáo đã dành ra hai tháng hướng về Đức Mẹ: tháng Năm và tháng Mười. Tháng Năm quen gọi là tháng hoa, vì từ xa xưa, rất nhiều xứ đạo thường tổ chức những buổi kiệu rước và dâng hoa kính Đức Mẹ vào một số ngày trong tháng. Riêng việc dâng hoa, sau một thời gian dường như im hơi lặng tiếng vì những lý do này khác, nay đang được phục hồi ở nhiều nơi, làm cho sinh hoạt đạo đức trong tháng Năm có một nét khác biệt. Điều này có thể gợi ra cho chúng ta một vài suy nghĩ.
![]() |
Có nhiều cách bày tỏ ra bên ngoài lòng sùng kính bên trong. Cách thông thường và phổ biến là bằng lời nói, vì lời nói chuyển tải ý tưởng và tâm tình cách dễ dàng và rõ ràng nhất. Người ta dùng lời nói để cầu nguyện với Đức Mẹ dưới những hình thức ca ngợi, cảm tạ hoặc xin ơn. Lời này có thể là lời Kinh Thánh, nguyên văn hoặc diễn ý; có thể là lời của con người, bộc phát hoặc đã được định hình bằng những kinh đọc.
Lời cầu nguyện, nếu được phổ nhạc, thì trở thành bài hát. Hát cũng là cách diễn tả phổ biến, nhưng đậm chất thi vị hơn kinh đọc: thi vị ở những lời đã được trau chuốt lại; thi vị ở những cung điệu trầm bổng nhịp nhàng. Ca hát mang lại cho lời một chiều kích mới, làm cho lời thêm sức rung cảm và khả năng hiệp thông giữa mọi người. Cho nên không lạ khi người xưa đã bảo: Hát hay là cầu nguyện hai lần.
Ngoài lời kinh được đọc hay hát lên, người ta cũng có thể bày tỏ tâm tình bằng những cử chỉ và dáng điệu. Những cử chỉ và dáng điệu này có thể được thực hiện cách độc lập, có thể đi kèm với lời kinh tiếng hát. Nếu chúng được thực hiện bằng những chuyển động liên tiếp nhau, liên kết với nhau theo một cấu trúc và nhịp điệu nào đó thì có một diễn vũ.
![]() |
Người ta còn bày tỏ lòng sùng kính bằng việc chiêm ngắm ảnh tượng. Ảnh tượng Đức Mẹ có thể thấy khắp nơi, với đủ hình dáng, kiểu mẫu và kích cỡ, không chỉ được đeo trên người, treo trong nhà, đặt trong nhà thờ mà còn được đặt ở nhiều chỗ khác. Ảnh tượng như làm lộ ra mầu nhiệm.
Việc chiêm ngắm ảnh tượng Đức Mẹ, cùng với lời kinh tiếng hát, giúp người ta dễ dàng đi vào mầu nhiệm con người, cuộc đời và sứ mệnh của Đức Mẹ, khắc sâu hơn mầu nhiệm ấy trong tâm khảm.
Điều đáng ghi nhận ở đây là tất cả những cách thức biểu lộ trên đây đều được thấy trong một buổi dâng hoa. Có lời kinh kính Đức Mẹ cả cộng đoàn đọc trước hoặc sau, để chuẩn bị hoặc kết thúc. Có những bài hát kính Đức Mẹ đi kèm với những cử điệu bưng hoa, diễn vũ của một số em đại diện cộng đoàn. Có tượng Đức Mẹ đặt ngay ngắn trên tòa ở phía trước và chính giữa, với hoa màu nến đèn rực rỡ, cho người ta chiêm ngắm. Quả là những yếu tố đập vào giác quan. Có cái gì đó khác hơn và lôi cuốn hơn những cử hành phụng vụ bình thường. Chính cái khác đó tác động không nhỏ đến tâm tình sùng kính Đức Mẹ của các tín hữu bình dân Việt Nam, ít nhất ở những hình thức bày tỏ bên ngoài của họ.
|
Dâng hoa bây giờ không chỉ giới hạn ở các em gái nhỏ tuổi, nhưng gồm cả những cô gái lớn, các em trai |
Ngày nay việc dâng hoa đã có nhiều thay đổi, khác ngày trước trong cấu trúc, trong bài hát, trong lối diễn vũ, trong số người dâng hoa.
Dâng hoa theo kiểu xưa luôn luôn có một cấu trúc, đi theo một trình tự, có phần khai đề (tiền xướng), tung hô và tấu lạy (Chúa và Mẹ), tiến hoa, cầu khẩn và từ tạ, trong đó phần tiến hoa chiếm địa vị trung tâm. Bài hát là dân ca, gồm những làn điệu thay đổi, với lời thường là những bài thơ, nhất là thơ lục bát. Nhiều nơi gọi là vãn. Cách diễn vũ đơn sơ, trang nghiêm, vì coi bài hát là chính. Số người dâng hoa đích danh chỉ là một nhóm đại diện, đông hay ít tùy xứ đạo, thường gồm những em gái nhỏ tuổi. Những yếu tố của một buổi dâng hoa đại khái là như thế.
Dâng hoa bây giờ đã biến đổi nhiều. Tuy có nơi đã thêm phần dẫn nhập dựa vào Lời Chúa, để buổi dâng hoa mang dấu ấn Kinh Thánh và phụng vụ, nhưng về chính phần dâng hoa, nói chung người ta không thấy rõ nét cấu trúc của nó. Bài hát sử dụng là những bài tân nhạc vẫn quen được hát để kính Đức Mẹ hoặc một vài bài có liên hệ ít nhiều đến việc dâng hoa. Bù lại, người ta nhấn mạnh đến cách diễn vũ, với những điệu múa phức tạp, liên tục, chiếm một không gian có khi choán cả gian cung thánh. Số người trình tấu đích danh không chỉ giới hạn ở các em gái nhỏ tuổi, nhưng gồm cả những cô gái lớn, các em trai. Nhiều nơi, cả cộng đoàn cùng tiến hoa lên Đức Mẹ.
![]() |
Chúng ta không có ý so sánh để nói lên sự hơn kém của mỗi bên, để chấp nhận kiểu này mà gạt bỏ kiểu kia. Chúng ta chỉ muốn, nhân việc xem xét này, gợi ra một vài ý.
Thánh Phaolô bảo rằng: “Điều gì tốt thì nên giữ” (1Tx5, 21). Theo thiển ý, những điều sau đây là tốt, cần duy trì và phát huy:
Một buổi dâng hoa cần có cấu trúc theo một mô hình và diễn tiến hợp lý. Nếu mỗi nghi lễ phụng vụ đều có nghi thức mở đầu, phụng vụ Lời Chúa và bí tích hoặc á bí tích, nghi thức kết thúc, thì một cách tương tự, buổi dâng hoa cũng được trình tấu có mở có kết, với trọng tâm là việc tiến hoa cho Đức Mẹ. Gắn liền với phần mở đầu, nên có bài đọc Lời Chúa và diễn giải vắn tắt, giúp cộng đoàn hiểu hết ý nghĩa của hành vi đạo đức này.
Về bài hát: theo Hiến chế Phụng Vụ Thánh của Công đồng Vaticanô II, thánh ca bình dân phải được khéo léo cổ võ, không những trong cử hành phụng vụ mà cả trong những việc đạo đức (số 10). Để dâng hoa, chúng ta có cả một kho tàng vãn hoa, những bài “thánh ca bình dân” được truyền tụng từ bao đời, với những lời thơ thâm thúy hoặc lời lẽ chất phác dệt trên nền nhạc dân tộc, nhưng hiện nay không còn mấy nơi sử dụng. Đành rằng có những bài khó hát vì ngân nga nhiều mà thời giờ tập lại ít, có những bài mà lời lẽ không còn phù hợp với cách diễn tả thời nay, nhưng cũng không thiếu những bài thực sự thấm sâu vào lòng người nghe hoặc hát. Và đừng quên rằng chính những bài hát như vậy đã góp phần làm gia tăng lòng sùng kính Đức Mẹ nơi biết bao tâm hồn đạo đức. Đây không phải là tâm trạng hoài cổ, nhưng là cố gắng rút ra những gì tốt trong kho tàng cũ, những gì góp phần làm nên bản sắc dân tộc phải gìn giữ.
![]() |
Nếu vì lý do nào đó không muốn hay không thể dùng lại y nguyên những bài vãn cổ xưa, nên chăng sử dụng nền nhạc dân tộc của một số bài vãn đã có, và thay lời cũ bằng những lời mới thích hợp với cách diễn tả ngày nay, cũng như “thích hợp với giáo lý Công giáo, và tốt hơn cả là rút ra từ Kinh Thánh và các nguồn mạch phụng vụ” (PV 121). Đặc biệt tiến hoa nên trình bày các sắc hoa theo năm màu truyền thống biểu thị những nhân đức tuyệt vời mà chúng ta muốn ca ngợi nơi Đức Mẹ, cũng như nói lên tất cả tấm lòng của chúng ta dâng cho Người, vì dâng hoa chính là dâng lòng...
Không giống các sinh hoạt đạo đức khác, dâng hoa có diễn vũ. Khuynh hướng ngày nay quá nhấn mạnh yếu tố này theo một phong cách tương tự với màn trình diễn trên sân khấu. Đó có phải là đưa nét đẹp văn hóa và nghệ thuật riêng vào sinh hoạt đạo đức không, như chỉ dẫn của sách Giáo lý Hội thánh Công giáo (số 1158)? Điều này còn cần phải bàn. Nhưng bảo rằng kiểu diễn vũ như vậy giúp cho người ta thêm phần sùng kính Đức Mẹ thì phải lấy làm ngờ. Hơn nữa, trong buổi dâng hoa, bài hát là chính, diễn vũ chỉ đóng vai phụ đi kèm với lời hát. Người diễn không chỉ diễn mà còn phải hát theo bài hát thì mới sống động.
Cuối cùng là về người dâng hoa. Từ “con hoa” đã trở thành cách gọi quen thuộc, cho biết người dâng hoa là ai: là những em nhỏ và thường là em gái. Dầu sao, các em trai nhỏ cũng có thể gia nhập đoàn con hoa, nhưng không nên đưa vào các cô gái lớn. Dáng dấp và tâm hồn đơn sơ của các em nhỏ dường như thích hợp để thay mặt cộng đoàn tiến hoa lên Đức Mẹ.
Những suy nghĩ trên đây chỉ là muốn góp phần làm tốt hơn một việc đạo đức đặc biệt trong tháng Năm, sao cho buổi dâng hoa thực sự khơi dậy và làm gia tăng lòng tôn sùng của dân Chúa đối với Đức Maria, Mẹ các tín hữu.
Lm Micae Trần Đình Quảng - GP Đà Lạt
Bình luận