1.
Hà Nội, theo dòng lịch sử, có hàng loạt tên gọi chính thức như Tống Bình, Đại La, Thăng Long, Đông Đô, Đông Kinh, Bắc Thành... và, vào năm 1831 (dưới đời vua Minh Mệnh) gọi tên là HÀ NỘI - viết chữ Hán : 河內 (ở đây không tính đến những tên không chính thức như Tràng An, Kẻ Chợ...).
Cần nhớ, trước khi phổ biến chữ Quốc ngữ vào những thập niên đầu thế kỷ 20, hết thảy thư tịch đều viết bằng chữ Hán, chữ Nôm.
![]() |
2.
Còn SÀI GÒN? Trong “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn - người quê Thái Bình, được mệnh danh “nhà bác học của VN thời quân chủ”, viết vào năm 1776, có ghi:
“Thống suất Nguyễn Dương Lâm vâng lệnh chúa Nguyễn đánh Cao Miên và Lũy Sài Gòn vào năm 1674”.
Lũy (壘) SÀI GÒN - được ghi bằng chữ Nôm 柴 棍 : tên gọi “Sài Gòn” xuất hiện trong chiến tích kể trên vào năm 1674, so với tên gọi “Hà Nội” (năm 1831) thì tên “Sài Gòn” đã có trước “Hà Nội” 157 năm, trước những một thế kỷ rưỡi.
Tuy nhiên, nếu cẩn trọng hơn, tên gọi “SÀI GÒN” đã xuất hiện trong thư tịch nào của Việt Nam hồi năm 1674 (thậm chí trước năm 1674) thì vẫn chưa minh xác. Nhưng chí ít, trong tài liệu khảo cứu “Phủ biên tạp lục” đã ghi rõ rành hai chữ 柴 棍 (Sài Gòn), tài liệu này ra đời năm 1776. Vậy, tên gọi “Sài Gòn” - dựa theo thư tịch chính thức này của nhà bác học Lê Quý Đôn (năm 1776) - đã có trước tên gọi “Hà Nội” (1831) là 55 năm, trước hơn nửa thế kỷ.
Tắt một lời, danh xưng SÀI GÒN đã xuất hiện TRƯỚC danh xưng HÀ NỘI từ nửa thế kỷ cho đến cả thế kỷ hơn.
![]() |
3.
“SÀI GÒN”, nghĩa là gì?
3a) Âm “GÒN”, dễ nhận ra ngay đây không phải âm Hán - Việt, thành thử tiền nhân chúng ta ghi lại bằng chữ Nôm: 棍
Trong rất nhiều cách cấu tạo chữ Nôm, có cách “dị âm dị nghĩa” - tức mượn nguyên xi chữ Hán nhưng không đọc theo âm Hán - Việt mà đọc âm Nôm (“dị âm”), và nghĩa cũng khác với nghĩa gốc của chữ Hán (“dị nghĩa”).
棍 : âm Hán - Việt là “côn” nhưng đọc thành “GÒN” (dị âm). Nghĩa của “côn” (Hán - Việt) là cây gậy; còn nghĩa của GÒN (Nôm) ắt phải khác (dị nghĩa) - là nghĩa gì, sẽ giải thích phía dưới.
3b) “SÀI” được viết như sau: 柴. Ở đây, chữ Nôm được cấu tạo theo cách “đồng âm dị nghĩa”.
柴: âm Việt - Hán là “sài”, âm Nôm cũng đọc “sài” (đồng âm). Nghĩa của “sài” (Hán - Việt) là củi khô / cành khô. Còn nghĩa của “SÀI” (Nôm) ắt phải khác (dị nghĩa), là ... nghĩa mần răng?
3c) Bạn đọc ắt từng nghe giải thích: GÒN là bông gòn, cây gòn, SÀI là củi => SÀI GÒN nghĩa là củi gòn, củi từ cây gòn. Nghe cũng dễ hiểu, tuy nhiên ở đây mắc lỗi gọi là “không tương thích”!
Là sao? “Gòn” được hiểu theo nghĩa Nôm là bông gòn, cây gòn; nhưng khi giải thich “Sài” là củi, tức dựa theo nghĩa gốc của chữ Hán chớ không phải nghĩa Nôm nữa! Không tương thích là vì vậy (một đàng nghĩa theo Nôm còn một đàng lấy nghĩa theo Hán).
Nghĩa Nôm của “sài” là gì? Là trong “sơ sài” đó.
Vậy, ráp lại “Sài Gòn” sẽ là cây gòn, bông gòn... sơ sài! Ồ, hiểu được, chết liền.
![]() |
Đường Lê Lợi gần chợ Bến Thành năm 1969 - Ảnh: Cittmeyer |
4.
Vùng đất này (“Sài Gòn”) trước kia thuộc Chân Lạp, tên gọi trong tiếng Khmer: ព្រៃ នគរ , “Prei Nokor” (“Prei” ព្រៃ phát âm gần với /rai/; còn នគរ : “No” đọc lướt, rất nhẹ, “kor” phát âm gần với /gor/ => “Prei Nokor” đọc gần như /rai gor/).
Trong cuốn “Histoire de la Mission Cochinchine” (Lịch sử truyền giáo ở Nam Kỳ), năm 1747, có ghi chép: “vùng Rai Gon”... Biến âm “Rai Gon” thành “Sài Gòn”.
“Prei” ព្រៃ , nghĩa là rừng rậm; “Nokor” នគរ , nghĩa là vùng, địa phương. “Prei Nokor” là vùng rừng rậm, trước kia cả vùng này còn hoang sơ, không canh tác nên rừng hoang mọc nhiều.
Đến đây, chúng ta đã tỏ tường về “nguyên tắc DỊ NGHĨA” trong cấu tạo hai chữ 柴 棍 :
- Phiên âm từ “prei” thành “SÀI”, ghi lại như vầy: 柴, mang nghĩa là “rừng rậm” (dị nghĩa so với nghĩa gốc “củi” của 柴);
- Phiên âm từ “nokor” thành “GÒN”, ghi lại như vầy: 棍 , mang nghĩa là “vùng” (dị nghĩa so với nghĩa gốc “cây gậy” của 棍).
SÀI GÒN, nghĩa gốc thuở ban đầu, là “vùng rừng rậm”.
5.
Quy phạm hóa bằng Hán tự:
Hơn nửa thế kỷ sau, vào năm 1679, chúa Nguyễn đã cho Trần Thượng Xuyên, Dương Ngạn Địch gốc Quảng Đông kéo hơn 3.000 người vào định cư, lập nghiệp tại vùng lãnh thổ này. Với ưu thế về tổ chức, họ đã góp phần đẩy mạnh công cuộc khẩn hoang của lưu dân người Việt (đã có mặt trước) có hiệu quả hơn. Họ (người Hoa gốc Quảng Đông) nghe người Việt đọc tên vùng này là “Sài Gòn”, họ phiên âm qua tiếng Quảng Đông là “Sai Kung” (lưu ý: /k/ được người Quảng Đông phát âm gần với /g/) và ghi lại bằng chữ Hán là 西 貢 (hai chữ Hán này được người Quảng Đông đọc là “sai kung”, gần hao hao với phát âm “sài gòn” trong tiếng Việt. Ở đây dùng chữ Hán để ghi âm, hoàn toàn không mang nghĩa)
* Tóm lại:
Từ tiếng Khmer ព្រៃ នគរ (Prey Nokor), tiếp biến qua âm Việt là “Sài Gòn”, sau đó tiếp biến qua âm Quảng Đông “sai kung”, ghi bằng chữ Hán là 西 貢.
Mà 西 貢, theo âm Hán - Việt là “Tây Cống”. Nhiều người đời sau lại đi suy đoán ngược, tưởng “Tây Cống” mang ý nghĩa của địa danh. Đây thuần túy là tiến trình ghi âm mà thôi.
Còn ý nghĩa của hai chữ “Sài Gòn”, xin nhắc lại, là “vương quốc của rừng”, “lâm quốc” - từ chữ Khmer gốc ព្រៃ នគរ.
Nhờ vào tài trí và sức lực của bao thế hệ mà Sài Gòn thân yêu thoát khỏi “vương quốc rừng” để trở thành “Hòn ngọc Viễn Đông”.
NGUYỄN CHƯƠNG
Bình luận