Trong cuộc sống đạo hằng ngày, người tín hữu vốn được Hội Thánh trang bị các phương thế dồi dào như tham dự các nghi thức phụng vụ, lãnh nhận các bí tích, thực hành các việc đạo đức chung và riêng, tham dự các sinh hoạt tại địa phương hoặc liên ngành, tham gia các công tác bác ái xã hội… Hội Thánh còn chủ tâm hướng dẫn tín hữu rèn luyện các đức tính tốt, tức thực hành các nhân đức, nhờ đó mà tín hữu mỗi ngày một trở nên thánh thiện theo ý Chúa. Nhờ tập tành rèn luyện các nhân đức mà Hội Thánh có được các vị thánh tốt lành thánh thiện, lưu lại những tấm gương sáng ngời cho hậu thế. Khi nhìn về Hội Thánh Khải Hoàn (Ecclesia triumphans) có thể nhận ra những mẫu gương nhân đức mà các đấng đã thực hiện. Sự thánh thiện qua các nhân đức đã góp phần xây dựng Hội Thánh hiệp thông tồn tại lâu bền. Các nhân đức đã đóng góp sức sống vững vàng cho Hội Thánh trải qua những thăng trầm của lịch sử. Các nhân đức của các thánh giáo hoàng, các thánh giám mục, các thánh linh mục, các thánh tu sĩ, các thánh giáo dân… đã chung sức xây dựng Hội Thánh một cách hiệu quả và cao quý.
![]() |
Ý NGHĨA CÁC NHÂN ĐỨC
Các nhân đức do các thánh và những người lành thực hiện thường là rất âm thầm kín đáo, nhưng nhờ sự chứng giám của các cộng đoàn, hoặc nhờ các chứng tích còn lưu lại, mà có thể nhận ra được.
“Nhân đức là một xu hướng thường xuyên và kiên trì để làm điều thiện. Nó khiến nhân vị không những thực hiện những hành vi tốt, mà còn cống hiến những điều tốt nhất của bản thân mình. Người nhân đức hướng về điều thiện với tất cả sức mạnh giác quan và tinh thần của mình; họ theo đuổi và lựa chọn điều thiện bằng những hành động cụ thể của mình”.
“Những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính trực tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh, đáng khen, thì xin anh hãy để ý” (thánh Phaolô tông đồ - Pl 4,8) (GLHTCG 1803).
CÁC NHÂN ĐỨC DỌN ĐƯỜNG CHO VIỆC HIỆP THÔNG VỚI TÌNH YÊU THIÊN CHÚA
Có nhiều loại nhân đức, nhưng nhân đức nhân bản mang ý nghĩa chung.
“Các nhân đức nhân bản là thái độ vững chắc, những xu hướng kiên trì, những trọn hảo thường xuyên của lý trí và ý chí, nhân đức khiến các hành vi của chúng ta điều tiết các đam mê của chúng ta và hướng dẫn nếp sống chúng ta cho phù hợp với lý trí và đức tin. Các nhân đức này đem lại cho con người sự thoải mái, sự tự chủ và niềm vui, để sống một cuộc đời tốt lành về mặt luân lý. Người nhân đức là người thực thi điều thiện cách tự nguyện”.
“Các nhân đức luân lý được thủ đắc theo cách thức nhân loại. Chúng là hoa trái và mầm móng của những hành vi tốt về mặt luân lý, chúng chuẩn bị một năng lực của con người cho việc hiệp thông với tình yêu của Thiên Chúa” (GLHTCG 1804).
Các nhân đức còn giúp cho con người hướng tới sự hiệp thông với nhau. Nhờ có nhân đức mà con người mở rộng lòng để sống yêu thương hòa hợp với mọi người. Các nhân đức giúp con người sống tốt với nhau, làm dậy lên bầu khí đạo đức thánh thiện.
CÁC NHÂN ĐỨC VÀ ƠN CHÚA
Thông thường, theo tâm tư và ước vọng của đa số tín hữu, ai cũng muốn ước theo đường trọn lành, tức “sống theo đàng nhân đức” (via sanctitatis / bon chemin / road of virtue ) noi gương các thánh đã trải qua. Nhưng không hẳn hễ muốn thì được. Muốn đi đàng trọn lành, tập tành và thực hành các nhân đức đòi hỏi hai yếu tố chính, đó là sức người và ơn Chúa.
“Các nhân đức nhân bản có được là nhờ sự giáo dục, nhờ các hành vi chủ ý và nhờ luôn cố gắng kiên trì, các nhân đức này được thanh luyện và nâng cao nhờ ÂN SỦNG THẦN LINH. Nhờ sự trợ giúp của Thiên Chúa, các nhân đức này tôi luyện tính tình và đem lại sự thoải mái trong việc thực thi điều thiện. Người nhân đức hạnh phúc khi thực thi các nhân đức đó”.
“Con người bị tổn thương bởi tội lỗi. Không dễ mà được sự quân bình luân lý. Ơn cứu độ của Đức Kitô đem lại cho chúng ta ân sủng cần thiết để kiên trì trong việc tìm kiếm các nhân đức. Mỗi người phải luôn cầu xin ơn soi sáng và ơn sức mạnh, luôn chạy đến với các bí tích, luôn cộng tác với Chúa Thánh Thần, nghe lời kêu gọi của Ngài để yêu mến điều tốt và giữ mình khỏi các điều xấu” (GLHTCG 1810-1811).
“… Bảy ơn Chúa Thánh Thần mà người tín hữu lãnh nhận qua Bí tích Thêm sức. Các ơn này hoàn thành các nhân đức của những người lãnh nhận và đưa các nhân đức đó tới mức trọn hảo. Các ơn này giúp các tín hữu dễ dàng vâng phục cách mau mắn những linh hứng của Thiên Chúa” (GLHTCG 1831).
Chúa Thánh Thần còn ban những ơn gọi là “hoa trái của Thần Khí” (fructus autem Spiritus / le fruit de l’Esprit / the fruit of the Spirit ). Có tất cả mười hai ơn (x. Gl 5,22-23 và GLHTCG 1832) trong đó các ơn như quảng đại hay đại lượng (magnanimitas / magnanimité / magnanimity) nhân hậu (benignitas / serviabilité / gentleness ), từ tâm ( bonitas / bonté / goodness ), hiền hòa ( mansuetudo / douceur / meekness )… rất cần để sống hiệp thông.
Lịch sử Hội Thánh vẫn còn đó ghi lại những trở ngại hoặc những sự cố liên quan đến sự hiệp thông mà nguyên nhân chỉ vì thiếu nhân đức, như chỉ vì thiếu đức khiêm nhường (humilitas / humilité / humility) chẳng hạn, đã nảy sinh sự phân hóa, phải mất thời gian và công sức để giải hòa hoặc hàn gắn. Việc thực hành nhân đức do đó rất cần để duy trì sự hiệp thông, mở đường cho cuộc sống Đạo hoan lạc và bình an theo như lời Chúa dạy: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học cùng tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,29).
Mt Từ Linh
Bình luận