Cuộc đời Nguyễn Trường Tộ chỉ vỏn vẹn 41 năm (1830-1871). Hoạt động của ông cống hiến cho đất nước cũng chỉ gói gọn trong 10 năm, nếu tính từ thời điểm ông đi nước ngoài về (1861) đến lúc ông qua đời. Nhưng chính sự ngắn ngủi của thời gian càng tôn lên tấm lòng trải rộng của ông đối với đất nước. Ông đã liên tục gởi nhiều bản điều trần (hiện còn lưu giữ được 58 bản) lên vua Tự Ðức, kiến nghị các biện pháp canh tân làm cho dân giàu nước mạnh, chống lại mối đe dọa ngoại xâm.
Kỳ 3: Những bản điều trần và sự bi kịch
Tài sản vô giá mà Nguyễn Trường Tộ còn để lại cho hậu thế là 58 bản di thảo, hầu hết là những điều trần gởi lên triều đình. Các kiến nghị của ông thuộc nhiều lĩnh vực như văn hóa, quốc phòng, ngoại giao, kinh tế; các sáng kiến về nông nghiệp, thương mại; những đề xuất ứng xử với tôn giáo, hệ thống quan lại… Quan điểm xuyên suốt của ông là đề nghị cải cách giáo dục, bỏ hủ nho, mở mang dân trí, đào tạo nhân tài, phát triển kinh tế, mở rộng bang giao, làm cho nước giàu mạnh, đánh đuổi ngoại xâm, giữ vững nền độc lập bền vững cho đất nước. Nhiều kiến nghị sắc sảo của ông đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Gần như cuộc đời Nguyễn Trường Tộ dành tâm huyết và lòng yêu nước vào 58 bản điều trần dâng lên vua Tự Đức. Những kiến nghị phần nào tác động tới nhà vua, nhưng tiếc là cuối cùng lại rơi vào quên lãng. Có người từng ví những bản điều trần đó như tiếng gà gáy sớm của một giai đoạn lịch sử. Tư tưởng canh tân của Nguyễn Trường Tộ khá toàn diện, các nhà canh tân cùng thời đa phần đều lập lại những điều ông từng đề cập.
![]() |
Đọc qua 58 bản điều trần, dễ dàng nhận ra ông là một người uyên bác lý thuyết nhưng cũng rất thực tiễn với cuộc sống, thật ngạc nhiên vì hơn 150 năm trước, ông đã chỉ ra một loạt những vấn đề, từ tư duy xây dựng nhà cửa, thành quách, sửa chữa máy móc, thăm dò quặng mỏ đến việc vẽ bản đồ, hướng dẫn học sinh thực tập bách nghệ, rồi chuyện lớn chuyện nhỏ về quốc kế dân sinh, ông đều thông thạo và có những nhận định thấu đáo, mang tầm nhìn chiến lược, bền lâu… Ông nhìn nhận thế giới cũng như nhận xét về Việt Nam, đánh giá về con người, xã hội đương thời rất chuẩn xác. Chẳng hạn, dù uyên thâm và tôn trọng Nho giáo nhưng trong tình hình thực tế, ông đã có những đề xuất mang tính cấp thời, để - nói như cách người Việt hay dùng - là “có thực mới vực được đạo”. Dễ thấy trong các bản điều trần phảng phất suy nghĩ này: “Tôi thiết nghĩ trong ngũ phúc, phú đứng đầu, triệu dân trước tiên lo ăn” (Điều trần số 53), bởi “Nếu bị cái nghèo đói thúc bách thì lo kế sống cũng không xong, còn hơi đâu mà bàn lễ nghĩa…” (Điều trần số 18). Rồi ông hiến kế (hiểu là đề xuất làm kinh tế): “Cách làm cho nước mạnh là ở chỗ tạo được nhiều của. Của cải nhiều thì lương thực đủ, khí giới tinh, thành trì vững, quốc phí đầy, các việc lợi ích do đó mà ra, các việc tai hại do đấy mà giảm bớt. Sự lợi ích đó không thể kể xiết. Cái tôi gọi là làm ra của cải ở đây không chỉ trông chờ vào thuế mà phải nhân nguồn lợi tự nhiên để sinh ra của…” (Điều trần số 5). Song song với điều trần này, Nguyễn Trường Tộ cũng gợi ý các phương thức “làm giàu” đơn giản nhưng thời bấy giờ chưa ai nghĩ tới, đó là tổ chức xuất khẩu nông sản, lâm sản, hải sản và cả khoáng sản đến cảng các nước, rồi mua các thứ hàng hóa trong nước cần dùng đem về. Theo ông thì: “Đó là một điều lợi lớn. Vì rằng những hàng hóa mình có, trừ số cần dùng ra, còn thì đem chở bán cho họ, họ lại bán cho nước khác, như thế thì họ không cần đến nước mình làm gì. Nếu như họ muốn đưa hàng hóa, sản vật của họ sang, thì đã có tàu của nước mình chở về để trao đổi với người cùng quê hương xứ sở, chẳng dễ hơn là mua ở bên nước họ hay sao? Như thế thì tự nhiên họ không cần tìm đến nước mình nữa. Sở dĩ họ tìm đến cầu thông thương với mình là vì mình không thể đi xa mà thôi” (Điều trần số 5). Lường trước được những khó khăn hoặc sự “bàn ra” hay “than khó”, ông cũng khuyên triều đình nên gởi người sang Anh, sang Pháp học về điều khiển và sửa chữa thuyền máy (tàu thủy) trước khi mua, có vậy mình mới chủ động và đỡ tốn kém hơn là thuê người nước ngoài; nếu có mua thuyền máy thì cũng chỉ mua một hai chiếc làm mẫu, rồi mình tự tổ chức đóng lấy. Ông cũng lý luận, cắt nghĩa, tìm lời giải khá uyển chuyển cho những lo lắng mở cửa sẽ dễ bị giặc vào, bằng việc nhìn vào thực tiễn để chủ động khắc chế. Như nhận định: “Hiện nay các hội buôn của họ sang nước ta, có hội thì xin mở đường xe lửa suốt cả Nam Bắc; có hội muốn xin khai mỏ dọc theo các núi, có hội muốn xin cho thuyền đi dọc theo biển để tiểu phỉ; có hội muốn thông đường buôn bán. Các người này một mặt xúi giục các quan của họ sớm làm cho thành chuyện, mặt khác đánh tiếng xin dần để dò xem như thế nào. Vả lại vua quan của họ cũng có thâm ý riêng. Từ quan đến dân, không ai là không chú mục vào nước ta” (Điều trần số 8), nên cho rằng triều đình cần chuẩn bị các điều kiện để khi họ xin thì mở cửa đón họ vào, để mình làm chủ, họ làm khách, chứ nếu không họ sẽ lập mưu chiếm hết, rồi họ làm chủ, mình là đầy tớ. Hơn nữa, thuyền bè họ qua lại đông đúc mình sẽ thu được thuế và lại loại trừ được nạn cướp biển.
![]() |
Về nông nghiệp, ông cũng có rất nhiều đề xuất đi trước thời đại như yêu cầu giảng dạy kiến thức nông nghiệp cho nông dân. Ra các quy định về việc săn bắn, đánh cá theo mùa, không săn thú bầy, không lưới cá bé, không chặt cây con... Nơi nào không có nước trồng lúa thì trồng tre, trồng bắp, chú trọng đến việc đào mương dẫn thủy nhập điền, tận dụng các bờ ruộng trồng cây ăn trái tăng huê lợi và làm mát khí hậu… Ông đã viết trong bản điều trần số 53: “… Cái gì trời sinh ra là có lý rất nhiệm mầu. Không có đất đai nào không có cây cối, đó là để tiếp hòa khí đất, thích hợp cho vật cho người, công dụng của nó rất lớn. Thế mà con người chẳng biết quý trọng, muốn chặt phá là chặt phá, bò dê ăn phá dẫm đạp. Thậm chí mùa khô, một đóm lửa cũng đủ cháy lan một dải núi lớn, tấc cỏ chẳng còn, nói gì đến cây cối nữa…”.
Đối với việc học và sách học ngày ấy, Nguyễn Trường Tộ lên án khá gay gắt và đề nghị đưa những kiến thức khoa học hiện đại và thực tế vào chương trình, cụ thể là phải có các môn nông nghiệp, thiên văn, địa lý, bách khoa, luật học… Ông lý giải nhiều điểm, trong đó có một câu gần như chỉ ra chính xác giới hạn tầm nhìn của giới quan lại thời ông sống, và cũng là nguyên nhân làm đất nước trì trệ : “Thật vô lý khi đi học thì học văn, từ, thơ, phú…, nhưng khi đi làm thì lại đối diện với luật, lịch, binh, hình…” (Điều trần số 27).
Trong vấn đề giải quyết xung đột tôn giáo, ngay từ thời đó, dù sống trong môi trường cấm đạo của nhà Nguyễn, Nguyễn Trường Tộ vẫn mạnh dạn góp ý để triều đình hiểu và cải thiện, từ đó có cái nhìn khác hơn. Ông khẳng định “không tôn giáo nào không lấy trung hiếu làm gốc; nếu không như thế thì người có lương tâm ai chịu tin theo…”, “Nếu có kẻ bội nghịch, cũng chẳng qua một phần nghìn, phần trăm mà thôi, tại sao không minh xét mà cứ đổ riết cho tất cả người đi đạo?”. Ông chỉ ra cuộc bách hại Công giáo đại trà ngày đó không mang lại lợi ích gì mà sẽ làm nhiễu loạn xã hội và có thể oan sai, vì “Nước vốn trong. Có quấy lên mới bị đục, nếu ngừng thì chốc lát sẽ trong trở lại…” (Điều trần số 2). Thậm chí ngay từ nửa cuối thế kỷ XIX mà ông đã gợi ý triều đình nên giao một số việc dạy nghề, mở trại tế bần cho các tôn giáo; mời gọi tham gia và tận dụng sở học của các tu sĩ vào việc phát triển đất nước (Điều trần số 17); quan hệ ngoại giao và lập sứ quán, phái bộ ở các nước phát triển, nhất là châu Âu, kể cả với Tòa Thánh La Mã…, để có nhiều cơ hội học hỏi, giao thương (Điều trần số 31, 32, 43, 52).
![]() |
Nguyễn Trường Tộ và vua Nhật Fukuzawa Yukichi |
Quả là những ý tưởng đi trước khá xa của một con người thiên tài, vừa có trách nhiệm với tha nhân, vừa thuận với lẽ tự nhiên và quy luật sống. Một bầu nhiệt tâm là thế, quá tiếc là khát vọng mang lại sự hùng cường cho dân tộc của một người luôn muốn cống hiến đã không trở thành hiện thực. Đương thời, Nguyễn Trường Tộ không được vua quan, sĩ phu coi trọng, có người nhận định ngoài sự bảo thủ, không tiếp nhận cái mới của vua quan ngày ấy, còn vì lẽ họ có chút dè dặt do ông là người Công giáo, trong thời mà đạo bị cấm cách. Dầu vậy, nếu đọc kỹ những bản điều trần, cũng như nhìn tổng thể những đóng góp thực tế của ông, sẽ nhận ra dù Nguyễn Trường Tộ là một tín hữu Công giáo nhiệt thành với đạo, nhưng khi đề cập đến đạo, ông nhìn và đặt vấn đề trong tổng thể quan hệ của dân tộc, với mục đích phục vụ lợi ích của đất nước. Bị vua quan nhà Nguyễn nghi ngờ, ông vẫn tận tụy và kiên nhẫn gởi đến triều đình các kiến nghị tâm huyết của mình. Ông đã chọn phương châm xử thế của người quân tử trong Nho giáo ông đã được hàm thụ và thấm nhuần : “Biết mà không nói là bất nhân; Nói mà không nói hết là bất nghĩa”. Tính nhân nghĩa này nơi ông còn sâu đậm hơn bởi tinh thần Kitô giáo ông đã được dạy từ bé. Theo nhà nghiên cứu Cao Tự Thanh viết trong cuốn Kỷ yếu Hội thảo khoa học năm 1992 mang tên “Nguyễn Trường Tộ với vấn đề canh tân đất nước” thì dù ông có tư tưởng canh tân tiêu biểu cho cả một trào lưu tư tưởng ở Việt Nam nửa sau thế kỷ thứ XIX, nhưng đáng tiếc lại thất bại. Thất bại ở đây bởi nhiều nguyên nhân, nhưng rõ nhất là vì mô hình kinh tế - xã hội tiến bộ kiểu Tây phương mà ông đề đạt lại rơi vào thời điểm chủ nghĩa tư bản phương Tây đang đe dọa nền độc lập của quốc gia phong kiến nước ta thời nhà Nguyễn, nên đã có những sự lo lắng, ngờ vực… Cùng với đó là tầm nhìn kém của hệ thống lãnh đạo lúc bấy giờ, nhà vua thiếu cương nghị và quyết đoán, một số quan lại mắc bịnh đố kỵ, phe phái và cục bộ…, nên không thể và không bao giờ “đồng thanh tương ứng” với Nguyễn Trường Tộ được. Nói cách khác, các quan niệm và tư tưởng tiến bộ của ông đã lọt thỏm vào trong ao tù của những cũ kỹ, lạc hậu, nên không đủ sức khuấy động, làm thức tỉnh…, thậm chí đôi khi còn bị gán ghép là một thứ “yêu ngôn”, làm mê hoặc dân chúng. Quả là một tấn bi kịch !
Cho đến bây giờ, giới sử học đã đánh giá rất cao con người ông và mức độ vĩ đại của những đề nghị canh tân. Cuộc cải cách nếu lúc đó được thực hiện sẽ thay đổi bộ mặt nước ta tương xứng với Nhật Bản thời Minh Trị Thiên Hoàng hay như Thái Lan thời Chulalongkorn. Nguyễn Trường Tộ và Nhật hoàng Fukuzawa Yukichi được xem là nhà tư tưởng lớn cùng thời. Thế nhưng, Yukichi sau này từ những canh tân của chính mình là đưa nước Nhật trở thành một nước phát triển. Còn về phía cụ Nguyễn Trường Tộ, lại ôm khát vọng tan thành mây khói mà rời khỏi trần thế. Hiện nay, nhiều tỉnh thành trong nước có đường mang tên Nguyễn Trường Tộ, và không ít ngôi trường mang tên nhà chí sĩ Công giáo yêu nước này. Tất cả 58 bản điều trần với trên 2 triệu chữ đã trở thành tài sản văn hóa hết sức quý báu của đất nước, chưa kể bản thân ông là tấm gương sáng chói về nghị lực, ý chí và niềm tin. Những đề nghị canh tân đất nước của Nguyễn Trường Tộ dù thời đó không được thực thi, cũng vẫn mang ý nghĩa cực kỳ trọng đại. Ngoài đánh giá một cấp độ tư duy của dân tộc, những bản điều trần còn chuyển tải thông điệp cho các thế hệ đến sau hiểu rằng, cần phải biết nghĩ đúng và nghĩ đẹp đối với vận mệnh đất nước và tiền đồ phát triển của quốc gia. Phải nghĩ đúng rồi mới hành động được đúng. Nghĩ đẹp thì mới có thể phấn chấn, lạc quan, tin tưởng…
Kỳ sau : Tìm lại dấu xưa với công trình Dòng thánh Phaolô Sài Gòn của Nguyễn Trường Tộ
NGUYỄN MINH HẢI
Bình luận