Nhắc đến ngày Tết, ký ức về những ngày làm báo tường lại ùa về, như một làn gió Xuân trong trẻo lướt qua tâm hồn.
Ngày xưa, dưới mái trường trung học, những tờ báo tường không chỉ là nơi để chúng tôi thể hiện sự sáng tạo, mà còn là nhịp cầu kết nối những trái tim non trẻ đầy nhiệt huyết. Báo tường thời đó chúng tôi gọi là “Bích Báo”, một cách nói văn vẻ với từ Hán Việt, có nghĩa là Báo Treo Tường.
Tôi học lớp đệ Ngũ, lớp 8 bây giờ, tại trường trung học tư thục Công giáo Văn Đức, cạnh nhà thờ giáo xứ Lộc Hưng. Dạy môn Việt Văn là thầy Trần Ngọc Bích, cũng là giáo sư hướng dẫn lớp, nay gọi là giáo viên chủ nhiệm. Môn Việt Văn tôi chẳng giỏi giang gì nhưng trời thương, năm đó tôi trúng tủ bài kiểm tra đệ nhất lục cá nguyệt (thi Học kỳ I), được 16/20 điểm, thế là thầy Bích cử tôi cùng với một bạn nữ tên Quý, là trưởng ban học tập, có trách nhiệm làm bích báo của lớp mừng Xuân mới năm 1965. “Ban biên tập” nói cho oai chứ chỉ gồm hai bạn mỗi tổ, lớp có 5 tổ nên tổng cộng là 10 bạn.
Ngày họp ban báo chí toàn trường, thầy Kiều Thanh Tùng, phụ trách Hiệu đoàn trường thông báo chủ đề đã được chọn kỹ lưỡng, năm đó là “Sắc Xuân học đường”, yêu cầu là phản ánh không khí đón Tết trong lớp, trong trường qua các chủ điểm từng tháng. Thầy quy định các tiêu chí chấm điểm gồm cách trình bày, trang trí tờ báo, tên tờ báo, nội dung các bài viết, thể loại… Một điều lưu ý quan trọng nhất là các bài trên báo phải tự sáng tác, không được chép của người khác hay lấy trên báo chí sách vở rồi đề tên mình, không được nhờ người khác làm giùm, nếu thấy có đoạn văn hay, bài nào ưng ý mà đăng lại thì phải ghi là bài sưu tầm. Thầy căn dặn: “Được phép tìm, đọc các tài liệu, các sách báo nhưng là để giúp cho các em có thêm ý cho hay, cho đúng. Nếu phát hiện vi phạm, Ban giám khảo sẽ trừ điểm”. Nhấn mạnh là phải trung thực, thầy Tùng qua đó cho chúng tôi hiểu thêm về việc làm thơ, viết truyện, viết báo sau này. Quả là một cách giáo dục mà từ hồi ấy, khi còn trên ghế nhà trường đến khi đã trưởng thành, chúng tôi vẫn tuân theo nghiêm nhặt.
Chiều đến, tôi đưa các bạn đến nhà sau giờ học do nhà gần sát bên trường. Một tờ giấy lớn crô-qui trải ra, cả nhóm hăng hái chia việc. Bạn khéo tay thì vẽ tranh trang trí; người viết chữ đẹp phụ trách viết; còn những người khác xúm lại cắt dán, tô màu. Mỗi người một việc, nhưng tất cả đều chung một niềm vui và sự háo hức.
Việc chọn tên tờ báo, thảo luận đi thảo luận lại, cuối cùng cả nhóm trình với thầy hướng dẫn lấy tên MAI VÀNG NGŨ 2. Thầy đồng ý và giao cho tôi viết LỜI NGỎ với yêu cầu chỉ một trang giấy học trò. Thật khó cho tôi, làm bài luận (tập làm văn lớp đệ Ngũ) cũng phải tối thiểu một tờ giấy đôi là 4 trang mới chuyển tải hết ý đề bài ra, vậy mà thầy chỉ dành cho một trang, do quy cách khổ giấy tờ báo. Nhưng rồi cũng cắt gọt để cuối cùng cũng hoàn thành.
Có những buổi chúng tôi làm đến khuya, vừa làm bích báo vừa trò chuyện rôm rả. Mùi keo dán, tiếng bút chì gạch sột soạt trên giấy, hay những giây phút cười đùa khi tranh luận một câu thơ, một câu văn… luôn làm tôi nhớ mãi. Cũng có những lần xảy ra tranh cãi nho nhỏ vì ý tưởng khác nhau, nhưng rồi mọi thứ đều được giải quyết bằng nụ cười và sự nhường nhịn. Việc chọn bài giao cho bạn Quý đọc, lựa… rồi trình cho thầy hướng dẫn duyệt. Đa số các bạn làm thơ “con cóc”, vần điệu lạc quẻ, nhưng trong trẻo hồn nhiên; truyện kể, tùy bút chỉ vài ba bài, cũng dễ hiểu là chúng tôi thời ấy còn non nớt và báo in cho thiếu nhi cũng chưa nhiều, nên cũng chưa biết thế nào là phải tưởng tượng, hư cấu…, cứ viết theo kiểu tường thuật đã được học từ tiểu học là chính. Cũng có bạn gởi VUI CƯỜI, gởi CÂU ĐỐ sưu tầm được trên báo in hằng ngày hay báo tuần.
Viết và trình bày trên báo tường là quan trọng hơn cả, hai bạn nữ viết chữ đẹp thay nhau viết hoặc chia mỗi bạn một góc. Vừa phải viết đẹp lại phải thẳng hàng, đúng chính tả. Những bạn khéo tay tranh thủ tô điểm cho khung các bài viết bằng bút màu hoặc dán thêm những cánh hoa mai làm từ giấy thủ công màu vàng, để tờ báo thêm sặc sỡ, hấp dẫn, mong đạt điểm cao.
Ngày nộp báo, Ban giám khảo là các thầy cô trong trường, ai nấy đều háo hức, hồi hộp chờ nghe đánh giá, khen ngợi hoặc góp ý. Năm đó lớp tôi được giải Nhì. Cảm giác thật khó quên, cả lớp ôm nhau reo hò như thể vừa giành được chiến thắng lớn nhất đời mình. Thầy Bích ôn tồn cắt nghĩa: “Dù có giải hay không cũng vui, quan trọng là cả lớp đã cùng cộng tác và có những kỷ niệm đẹp với nhau”.
Giờ đây, khi những tờ báo tường chỉ còn trong ký ức, tôi vẫn nhớ mãi tinh thần tập thể, những nụ cười rạng rỡ, và sự vô tư của tuổi học trò. Những bài viết đơn sơ, mộc mạc nhưng thật trong sáng của tuổi thơ ngày ấy đã lưu giữ cả một bầu trời kỷ niệm, mà dù có bao mùa Xuân đi qua, tôi vẫn luôn trân quý.
Đỗ Công Minh
Bình luận