1.
Về miền Tây, đồng nghiệp làm báo ắt đều nhận ra: ở xứ này đi đâu cũng gặp địa danh mang tên “Cái”, ta nói, có mặt đều trời! Ở 13 tỉnh, thành miền Tây, cho dù lơ đễnh cách mấy thì cũng phải chú ý, ngạc nhiên, và rồi không khỏi thú vị.
Thử đơn cử, chưa phải là danh mục liệt kê đầy đủ:
Long An có Cái Nứa, Cái Đôi, Cái Rô (huyện Mộc Hóa), Cái Bát, Cái Môn, Cái Sách, Cái Cỏ (huyện Tân Hưng).
Tiền Giang có Cái Bè…
Đồng Tháp có Cái Mít (Sa Đéc), Cái Tiêu, Cái Sơ (huyện Hồng Ngự).
Bến Tre có Cái Mơn (đây là sinh quán của nhà bác học Trương Vĩnh Ký), Cái Nhum, Cái Sơn Bé, Cái Kè, Cái Muối, Cái Gà, Cái Tắc, Cái Cát (huyện Chợ Lách). Rồi, Cái Đa Trại, Cái Mít (huyện Giồng Trôm). Đến huyện Thạnh Phú có Cái Cá. Huyện Mỏ Cày có Cái Gấm. Tại Ba Tri có Cái Bông (đây là sinh quán của cụ Phan Thanh Giản). Tại Châu Thành có Cái Nứa…
Vĩnh Long có Cái Vồn (huyện Bình Minh), Cái Cui (huyện Tam Bình), Cái Dứa (huyện Vũng Liêm), Cái Nhum (huyện Mân Thít)…
Trà Vinh có Cái Cối, Cái Đôi (huyện Duyên Hải)…
Thành phố Cần Thơ có Cái Khế (quận Ninh Kiều), Cái Răng, Cái Sâu, Cái Chanh, Cái Muồng, Cái Da (quận Cái Răng), Cái Sắn (huyện Thốt Nốt)…
Hậu Giang có Cái Côn (huyện Phụng Hiệp), Cái Su, Cái Tư (thành phố Vị Thanh), Cái Lớn, Cái Bé, Cái Nhum, Cái Nhúc, Cái Sình, Cái Tắc…
Sóc Trăng có Cái Oanh (huyện Long Phú), Cái Xe, Cái Đường (huyện Mỹ Xuyên), Cái Cao, Cái Trâm, Cái Trưng, Cái Sách (huyện Kế Sách)…
Bạc Liêu có Cái Dầy, Cái Tràm (huyện Vĩnh Lợi), Cái Cùng (thị xã Giá Rai), Cái Chanh (huyện Hồng Dân)…
Cà Mau có Cái Cấm, Cái Đôi Vàm…
Thành thử, với “máu nghề nghiệp nhà báo”, ắt phải tự hỏi “Cái” mang nghĩa gì chung mà ở miền Tây ưng đặt?
|
Có một số địa danh được truy nguyên từ tiếng Khmer, mà “cái” là một biến âm. Như Cái Răng được cho là xuất phát từ “chang kran” [1], nghĩa là “bếp lò”. Sở dĩ gọi vùng này là “chang kran” vì trước kia người Khmer dùng làm nơi tụ họp chuyên bán những bếp lò bằng đất. “Chang kran” được gọi tắt “Kran”, người Việt tiếp nhận và đọc biến âm “kran” thành Cái Răng.
Trong từng trường hợp riêng biệt, nếu có gốc gác từ tiếng Khmer (có khi là tiếng
Mã Lai, hoặc Thái Lan) thì xem xét biến âm “cái” mang nghĩa gì cụ thể. Nhưng đó không phải là chủ đề chúng tôi nhắm đến. Mà “cái”, ở đây, được xem xét từ ngôn ngữ thuần Việt (không biến âm từ ngôn ngữ khác).
2.
2.1/ Trong ý nghĩa đơn giản, trước hết, “cái” là mạo từ (article) đi liền với danh từ như cái nhà, cái bàn, cái ghế…, “nhà”, “bàn”, “ghế” là danh từ, cái ở đây chỉ là mạo từ (có hoặc không có mạo từ thì danh từ “bàn”, “nhà” vẫn tạo nghĩa). Những địa danh như Cái Mít, Cái Bông, Cái Cối… thì “Mít”, “Bông”, “Cối” rõ ràng là danh từ. Mặt khác, “cái” là lượng từ được dùng mỗi khi đếm: một cái ghế, hai cái ghế, chớ ít khi nói một ghế, hai ghế.
“Cái” được xem xét như âm thuần Việt, viết bằng chữ Nôm (lúc chưa có chữ Quốc ngữ): 個. Trong nhiều cách cấu tạo chữ Nôm, có trường hợp mượn nguyên dạng một chữ Hán nhưng đọc khác – như trường hợp đang nói ở đây:個, âm Hán-Việt là “cá” nhưng được đọc khác đi, là cái.
2.2/ Thứ đến, “cái” còn là đại từ, và cần có ngữ cảnh để hiểu ý nghĩa của cái. Khi nói “cái này to lớn”, ắt phải có ngữ cảnh liên quan để hiểu cái được dùng thay cho một danh từ nào trước đó. Thành thử “Cái” được xem là “danh từ ẩn”.
Chẳng hạn, địa danh Cái Lớn, Cái Bé. Chúng ta thấy “Lớn”, “Bé” là tính từ, không phải danh từ. Vậy muốn hiểu “Cái” đại diện ý nghĩa gì, “ẩn” cho danh từ nào, thì phải nắm cho được bối cảnh địa lý nơi vùng đó.
Trong Gia Định Thành thông chí, ghi Cái Lớn bằng chữ Hán 大江 “Đại giang”, ghi Cái Bé là 小江 “Tiểu giang”, ghi Cái Mít là 菠蘿江 “Ba La giang” (“Mít” là âm thuần Việt, chuyển sang âm Hán - Việt gọi là “Ba La Mật” hoặc “Ba La”)… Bởi vì ghi như vậy nên có ý kiến suy đoán “Cái” nghĩa là “giang”, là “sông”.
2.3/ Củng cố cho suy đoán dẫn trên, trong sách “Địa danh học Việt Nam”, tác giả cho biết có khoảng 90% địa danh mang thành tố chung “Cái” ở vùng châu thổ Cửu Long đều liên quan tới sông, nhánh sông, kinh, rạch… Để từ đó, đồng nhất “cái” với sông, rạch.
Tuy nhiên, giới làm báo chúng tôi nhanh chóng nhận ra, ở đây, có một “nghịch đề”: ai cũng biết “sông” là một danh từ thuần Việt, được dùng quen thuộc hàng bao nhiêu đời rồi, cứ việc gọi Sông Lớn, Sông Bé, Sông Mít quá dễ dàng, dễ hiểu, đâu việc gì phải sửa thành Cái Lớn, Cái Bé, Cái Mít để suy đoán này kia cho nhức đầu! Ngoài ra, còn khoảng 10% địa danh mang từ tố “Cái” không liên quan tới sông rạch gì ráo. “Cái” lúc đó mang nghĩa gì?
Vậy, bà con miền Tây dùng chữ Cái nhằm biểu đạt cái sự gì, nhắc nhở cho nhau về thực tế gì, ở đây?
|
Nhà thờ Cái Răng |
3.
3.1/ Vậy là “nghịch đề” trở thành “nan đề”, có những địa danh “Cái” không dính dáng gì tới sông rạch, nghĩa gì nằm ở chữ Cái như vậy? Để rồi, lúc ngồi lai rai, trong đồng nghiệp báo giới có người nảy ra một gợi ý: còn một mạch nghĩa nữa của “Cái”. Trong sông cái, cột cái..., ở đây, “Cái” nghĩa là chính yếu, là trội hơn, át hẳn. Tôi buộc phải tìm hiểu cho nghiêm túc.
Chữ Cái này được viết bằng ký tự 蓋 (âm Hán - Việt là “cái”; lại phải lưu ý là từ vựng tiếng Việt của chúng ta trước đây còn ghi bằng Hán tự, lúc chưa có chữ Quốc ngữ). Như “cái thế” 蓋世, tức vượt trội trong trần thế.
Thành tố “cái” (蓋), do vậy, được dùng để nhấn mạnh. Chúng ta thường nói “con cò”, nhưng trong câu ca dao “Cái cò đi đón cơn mưa. Tối tăm mù mịt ai đưa cò về”, thay vì “con” lại được đổi thành “cái” - nhằm thể hiện một sự biểu cảm nhấn mạnh.
3.2/ Miền châu thổ Cửu Long nổi bật với sông, rạch, kinh chằng chịt; sông nước nơi đây trở thành yếu tố vượt trội. Do đó, thành tố Cái vừa được dùng để nhấn mạnh yếu tố vượt trội của sông nước, vừa trở thành “danh từ ẩn” (nêu trong 2.2/) nói đến sông nước.
Điều này giải thích vì sao 90% địa danh mang thành tố Cái là thuộc về sông nước, kinh rạch. Như Cái Cùng (kinh), Cái Chanh (rạch), Cái Muối (rạch), Cái Bé (sông)…
Do xu hướng biểu cảm nhấn mạnh thông qua chữ Cái (蓋), 10% số địa danh cho dù không dính dáng tới sông nước cũng chịu tác động mà đặt tên “Cái…”, và trở thành một thói quen ngôn ngữ của cư dân miền Tây.
__________________________________________
1. “chang kran” ចង្ក្រាន
NGUYỄN CHƯƠNG
Bình luận