Ngày ấy, trước sân và đằng sau nhà ngoại trồng rất nhiều dừa, nhiều đến nỗi lũ trẻ chúng tôi không đếm xuể. Nghe má kể, hồi xưa đất của ông bà để lại nên ông ngoại đã trồng dừa hết khu, ngôi nhà lá cất ngay giữa và bao trùm là đám dừa xanh mát quanh năm.
![]() |
Dừa nhà ngoại nổi tiếng cả xóm vì trái có kích thước lớn, nước ngọt, nhiều nhà thích mua dừa về uống, mà ngoại bán thì rẻ, lấy tiền cho sấp nhỏ ăn quà. “Cái tình vẫn quan trọng hơn, tiền bạc có là bao”, ngoại nói vậy. Trong xóm có chú Út Hên nổi tiếng leo dừa giỏi. Hễ ai cần hái dừa là gọi chú liền, mà chú vốn hiền lành nên ai nhờ chú cũng gật đầu. Hái xong, chủ nhà tặng một, hai trái vừa cảm ơn vừa coi như cách trả công. Người miền Tây ngày trước hay có thói quen đáp trả nghĩa tình, không phải mọi lúc và mọi thứ đều quy ra bằng tiền. Lần nào hái dừa, ngoại cũng kêu tôi chạy qua nhà chú Út nhờ, riết rồi mỗi khi thấy mặt tôi là chú cứ nói: “Về đi, chút chú qua, thấy bây là biết số nhà rồi”. Nước dừa dùng để kho thịt mỗi khi Tết đến, nấu các món lẩu hoặc đơn giản là để uống cho mát mỗi khi nóng nực. Nhiều khi đi làm ruộng nắng rát, khát nước, hớp ngụm nước dừa cũng đủ mát lòng mát dạ. Những trái dừa khô mỗi khi rụng, ngoại thường đem để một góc dùng nấu chè hoặc có ai cần xin thì cho. Quê tôi có lệ, nấu chè là phải có nước cốt dừa, mặc dù nhiều người thích cái béo có nước cốt, nhưng tôi không ăn được. Bởi mỗi khi má nấu chè là dặn múc ra một tô riêng rồi hả bỏ nước cốt sau cho cả nhà. Lá dừa và những bẹ dừa khô cũng được người ta tận dụng để nhóm lửa, nấu bếp, nhà nào trồng dừa là có củi xài từ năm này qua tháng nọ, không sợ thiếu. Nhớ hồi nhỏ, ngoại thường kêu tôi gom củi dừa ra phơi trước sân cho khô, canh chừng trời chuẩn bị mưa thì gom nhanh vô nhà kẻo ướt. Tôi và các bạn chạy quanh mấy góc dừa trốn tìm, ca hát. Dù luôn đinh ninh lời ngoại, có mấy lần vẫn không dọn củi kịp với ông trời. Mới nắng đó rồi lại mưa ngay. Ngoại dọn cùng các cháu mà vừa rày mải mê chơi. Rày thế, khi đâu đó xong xuôi, ngoại giục các cháu vào trong nhà, sợ bệnh.
Có dịp đi đến những vùng khác thấy bà con làm kẹo dừa hay những vật dụng xài trong gia đình như: muỗng, đũa, chén,… được làm từ dừa, bắt mắt. Có lần, tôi ngồi hỏi ngoại: “Phải chi xứ mình cũng làm những sản phẩm từ dừa như người ta chắc kiếm được nhiều tiền lắm ngoại hen”. Nhưng ngoại chỉ cười bảo: “Thật ra xứ mình người ta trồng dừa không phải vì mục đích kiếm tiền mà bởi vì dừa dễ sống, thích hợp ở vùng đất phù sa này nên bao đời cứ trồng, có trái mà ăn. Trồng để cho con cháu ăn, cho xóm làng mát mẻ. Dừa che mát, lá để làm nhà, thân làm cột,…”. Có thể nói, dừa đã cống hiến hết tất cả những gì nó có cho con người. Với các bậc trung niên, làm sao quên được ký ức đi qua cầu dừa trơn trợt hay đêm tối có việc đi xa, đốt đuốc lá dừa rọi sáng mà vững niềm tin.
Vườn dừa của ngoại có tuổi đời ngang với tuổi má tôi. Sau này, khi má lập gia đình riêng thì ông ngoại cho người cưa bớt vì tuổi già không quán xuyến hết. Đến khi ông ngoại mất, những cây dừa kỳ cựu cũng lần lượt nắm tay ra đi, chỉ còn lại mấy cây sau nhà. Bà ngoại bây giờ tuổi cao, mắt yếu. Dù vậy, với chuyện ngày xưa lại rõ mồn một. Thỉnh thoảng, tôi đi xa về, ngoại hay kể chuyện cũ, bà cùng dựng xây cuộc sống với ông. Ông ngoại thương con cháu, chăm cây kỹ lưỡng, gắn bó với vườn dừa. Phút chốc, ngoại rớm nước mắt.
Tôi thương ngoại và cũng thầm nghĩ, cũng sẽ đến lúc hàng dừa dũng mãnh kia lụi tàn theo thời gian, rồi ai giữ lại dùm tôi những ký ức tuổi thơ hào nhoáng dưới bóng dừa nghiêng nghiêng xanh biếc? Bởi thế, tôi luôn trân trọng mọi phút giây hiện tại, gần ngoại, gần với miền cổ tích diệu kỳ.
THANH PHÚ
Bình luận