Đầu Xuân Giáp Thìn, tham gia vài chuyến du xuân với anh em bằng hữu ở các độ tuổi và nhóm ngành nghề khác nhau, mới thấy sự lựa chọn điểm đến hoàn toàn không phải vô cớ, mà đều có chủ đích. Trải nghiệm qua một số chùa, dễ nhận thấy rằng, kết cấu kiến trúc, phong cách, niên đại chùa có tác động ít nhiều tới tâm lý của du khách.
Nhóm thứ nhất, đa số chọn các ngôi chùa cổ. Có thể kể đến chùa Hương, chùa Mía, Chùa Thầy, Tây Phương (Hà Nội), chùa Dâu Phật Tích (Bắc Ninh), Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang), Quỳnh Lâm, Yên Tử (Quảng Ninh)… Tại sao họ chọn những chùa này? Đó là vì phần lớn họ chú tâm tới yếu tố truyền thống của ngôi chùa. Những chùa này đã xây dựng lâu và có một bề dày lịch sử. Những kiến trúc truyền thống, chất liệu xây dựng chủ yếu là gỗ, đá, gạch, tạo cho họ cảm giác ấm cúng thân thuộc. Nhóm này đa số là trung niên. Nếu là trẻ tuổi thì hầu hết có kiến thức nhất định về Phật giáo. Tâm lý chung của nhóm này là chùa cổ tạo cho họ cảm giác linh thiêng hơn và bớt ồn ào, đông đúc.
Nhóm thứ hai, đa số chọn những ngôi chùa mới. Tức mới xây, mới khánh thành. Các chùa này có thể kể đến như Bà Vàng (Quảng Ninh), Tam Chúc (Hà Nam, Bái Đính (Ninh Bình), Đại Tuệ (Nghệ An)… Gọi là chùa mới nhưng đa phần đều được xây dựng trên nền, đất chùa cũ. Vậy nên cũ mới trong nhận thức nhóm này chỉ đơn thuần về mặt vật lý. Nhóm này thường chọn chùa mới vì họ đọc báo, xem tin về những chùa này với hình ảnh đẹp và bắt mắt. Hơn nữa, họ cũng chịu ảnh hưởng bởi nhóm bạn bè đã từng đi và đăng ảnh trên các trang cá nhân. Bởi vậy, thành phần nhóm này thường là người trẻ. Họ đến chùa không chỉ cầu an, mà quan trọng còn là “check-in” để có một bộ sưu tập ảnh kỷ niệm. Nơi đến của nhóm này là những địa điểm có kiến trúc hiện đại, rộng to, kết cấu bê tông và có nhiều cảnh hoành tráng.
Từ hai nhóm trên, mới thấy di sản văn hóa Phật giáo hôm nay đang có một sự kết nối giữa quá khứ và hiện tại. Trong cái hiện đại có cái quá khứ, và với mỗi trạng thái thiên về cổ hay kim đều có những lựa chọn du khách với những mục tiêu và tâm nguyện khác nhau. Không có loại hình nào là dở hoặc chiếm ưu thế tuyệt đối cả. Nhưng cả hai loại hình trên đều làm tốt một chức năng là đáp ứng nhu cầu tâm linh, văn hóa cho người dân.
Quan sát xã hội học trên cho thấy, vốn di sản văn hóa Việt, trong đó có nền tảng là các tôn giáo, tín ngưỡng, đã và đang là một nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế, nhất là mảng dịch vụ du lịch cho nhiều địa phương. Điều này đặt ra cho các nhà chức trách một nhiệm vụ quan trọng là cần phát huy vốn di sản dân tộc để phát triển kinh tế; đồng thời cần lan tỏa không chỉ cho người Việt mà cả bạn bè năm châu biết đến hồn Việt, văn hóa Việt. Nhưng mặt khác cũng đặt ra một trách nhiệm không nhỏ cho các nhà quản lý và các chủ thể di sản: Cần giữ gìn hồn văn hóa Việt cho tinh tuyền và lành mạnh, tránh sự xâm nhập quá sâu của quá trình thế tục hóa.
Ngô Quốc Đông
Bình luận