“Chữ Quốc ngữ là hồn trong nước”
(Đông Kinh nghĩa thục, đầu thế kỷ 20).
1.
1a) “Chữ Quốc ngữ dễ học, dễ đọc, dễ nhớ”, quý bạn có ngờ rằng, đó lại đang là cách lập luận của một số người… dè bỉu chữ Quốc ngữ? Họ cho rằng chữ Quốc ngữ chỉ như vậy thôi, “dễ học, dễ đọc, dễ nhớ” thuộc về công dụng, đâu có gì mà phải vỗ tay hồ hởi. Bởi vì, đó, nhìn qua bên Nhựt Bổn: vừa xài chữ Hán (người Nhựt gọi là Kan-ji: 漢字), vừa dùng bộ chữ hiragana (ひらがな), katakana (カタカナ). Văn tự vừa biểu ý (Kan-ji), vừa biểu âm (hiragana, katakana), khó học khó nhớ, rắc rối vậy đó, nhưng người Nhựt vẫn hội nhập thế giới rất giỏi, đất nước của họ trở thành cường quốc kinh tế đáng nể (GDP năm 2022 đứng thứ 3 thế giới).
Rồi Hàn quốc đâu xài văn tự Latin (như chữ Quốc ngữ ở Việt Nam) mà xài bộ chữ Hangul (한글), người Hàn vẫn có nền kinh tế với GDP năm 2022 đứng thứ 10 trên thế giới.
1b) Lối suy nghĩ cho rằng dùng hệ chữ Latin thì đất nước phát triển, lẫn cách lập luận ngược lại, nghĩ rằng không dùng chữ Latin thì đất nước vẫn phát triển, cả hai theo tôi đều không thích hợp, vì đặt “hệ quy chiếu” không trúng. Thật vậy, việc đánh giá cái hay, cái dở của một hệ thống văn tự là được dựa trên quy luật vận hành của ngôn ngữ. Còn sự hưng thịnh hay suy yếu của một quốc gia lại thuộc về quy luật vận hành chánh trị - kinh tế, là một phức hợp gồm nhiều yếu tố.
Thử nhìn lại, trong nhóm G7 thì có đến 6 quốc gia dùng văn tự Latin, trong Top 15 GDP năm 2022 thì có đến 11 quốc gia dùng văn tự Latin. Nhưng, đâu thể dễ dãi lấy việc sử dụng văn tự Latin để giải thích (còn hàng chục quốc gia khác cũng văn tự Latin mà kinh tế yếu xìu thì sao?). Dễ thấy ngay, sự hưng vong nằm ở cách thức quản trị xã hội, thiết chế vận hành kinh tế, chớ đâu nằm ở bộ chữ!
Tự dưng buộc văn tự phải gánh lấy sự hưng vong quốc gia là “quá hớp”, rất dễ rơi vào những suy đoán cảm tính không hơn không kém!
![]() |
2.
Trở lại với chữ Quốc ngữ của chúng ta.
2a) Văn tự (chữ viết) lý tưởng nhứt, tốt nhứt cho một tộc người là phải chứa được toàn bộ tiếng nói của tộc người. Sự gắn kết giữa vỏ văn tự với tiếng nói (“hồn” của ngôn ngữ) tạo nên GIÁ TRỊ của văn tự!
2b) Chữ Hán là văn tự thích hợp cho người Hoa, vì văn tự này chứa được tiếng nói của người Hoa. Trong khi đó, chữ Hán chỉ chứa được một phần tiếng nói của người Việt (“âm Hán - Việt”), còn toàn bộ quốc âm (Nam âm) thì không có mặt trong chữ Hán! Tức chữ Hán không phải là văn tự thích hợp cho Tiếng Việt.
Trường hợp này cũng tương tự đối với tiếng Hàn. Thời xửa xưa, người Hàn Quốc cũng từng dùng Hán tự. Tuy nhiên, Hán tự không chứa được quốc âm của người Hàn, thành thử họ phải tạo ra bộ chữ Hangul để tiếng nói của họ có nơi “trú ngụ”.
Người Nhựt cũng gần như vậy. Hán tự (Kan-ji) cũng không hoàn toàn tương thích đối với tiếng Nhựt, họ phải dùng thêm bộ chữ hiragana, katakana (cả hai bộ chữ này xuất hiện từ thế kỷ V để biểu âm theo cách đọc của người Nhựt).
2c) Chữ Nôm ra đời nhằm lưu giữ quốc âm (Nam âm), tiếc thay, rất nhiều triều đại quân chủ nước Việt đã xem nhẹ vai trò của chữ Nôm. Thân phận hẩm hiu của chữ Nôm đã được chữ Quốc ngữ gánh lấy, chia sẻ kho tàng Nam âm chứa trong chữ Nôm.[1] Tỉ dụ “thanh thiên” (âm Hán - Việt) lẫn “trời xanh” (Nam âm) đều được lưu giữ, ghi lại dễ dàng bằng chữ Quốc ngữ. Chữ Quốc ngữ chứa được tiếng nói Việt, gồm cả âm Hán - Việt lẫn Nam âm (quốc âm), và đây chính là GIÁ TRỊ của chữ Quốc ngữ!
Xin nhắc lại, “dễ học, dễ đọc, dễ nhớ” chỉ là công dụng, hiệu quả của chữ Quốc ngữ mà thôi. Rất tiện lợi, nhưng đó không phải là giá trị cốt lõi của chữ Quốc ngữ. Vào đầu thế kỷ 20, nhiều sĩ phu trí thức người Việt am hiểu chữ Hán, và do vậy, họ thừa hiểu chữ Hán là thứ văn tự khiếm khuyết so với nhu cầu của Tiếng Việt! Thành thử chính họ đã cổ võ việc học chữ Quốc ngữ, vì họ nhận ra giá trị cốt lõi của bộ chữ này.
![]() |
Giá trị nền tảng của chữ Quốc ngữ là ghi được toàn bộ quốc âm, do đó “Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi, “Lục Vân Tiên” của Nguyễn Đình Chiểu - viết chữ Nôm cũng chứa quốc âm - được chuyển dạng văn tự sang chữ Quốc ngữ dễ dàng, thuận lợi… |
3.
Còn một giá trị nữa, rất rõ rành, nhưng do vô tình lớt phớt mà nhiều người không nhận biết. Đó là chữ Hán, khi tiền nhân chúng ta viết ra, người Trung Hoa nhìn vào là họ hiểu được liền. Bởi vì chúng ta ôm nguyên xi bộ chữ Hán về xài, chúng ta gọi “Hán tự” chớ đâu bao giờ gọi đó là “Việt tự” (chữ Việt). Trong khi đó, nếu mời bất cứ người Bồ, người Ý, người Pháp - thuộc hệ thống văn tự gốc Latin - nhìn vào mặt chữ Quốc ngữ mà chúng ta đang viết (cũng thuộc hệ thống văn tự biểu âm Latin) thì họ sẽ không hiểu được (muốn hiểu, họ phải học).
Bộ chữ Quốc ngữ, quả thực, đã là bộ chữ dành cho người Việt chúng ta mà thôi, hoàn toàn trở thành Bộ-chữ-của-Tiếng-Việt.
![]() |
Chữ Nôm vẫn không làm bật được đặc trưng thanh điệu của tiếng Việt. Gia Định báo, tờ báo đầu tiên bằng chữ Quốc ngữ, cho thấy ưu thế của bộ chữ này khi có các dấu thanh điệu. |
NGUYỄN CHƯƠNG
1 Đọc bài Tiến trình tạo dựng ban đầu của bộ chữ Quốc ngữ trong Chuyên mục này.
Bình luận