(NHÂN KỶ NIỆM 60 NĂM KHAI MẠC CÔNG ÐỒNG VATICAN II)
Chúng ta thấy trải qua nhiều thế kỷ, phương Tây đã và đang sống trong chuyển động, trong đó lãnh vực thần linh dường như không còn không gian sống tại vùng này. Vấn đề lạ thường nữa là việc giảm sút đó được đón nhận bởi một số lớn khá quan trọng của người phương Tây. Hơn thế, họ còn cho rằng, từ nay, nhân loại không thể còn tin được vào một đấng bên trên mà nhân loại phải lệ thuộc hay quỵ lụy nữa. Do đó, không ai có thể chấp nhận rằng lãnh vực thần linh có thể chuyển dời mà không biến mất, rằng địa bàn của cái vô hình có thể nằm ở một nơi khác, di dời dưới ảnh hưởng của cái hữu hình đang lan tràn khắp nơi. Thế giới phương Tây tưởng rằng sự phát triển của con người nói lên cái chết của Thiên Chúa, trong khi đó Người có thể ở nơi khác với nơi mà thế giới thường đặt để cho Người.
Trong tình huống đó, quyền bính của Giáo hội lại co cứng và phủ nhận các văn minh khoa học vì nghĩ rằng dù gì thì những khám phá đó cũng đưa đẩy con người đến khước từ Thiên Chúa. Các lãnh đạo của Giáo hội dường như nghĩ rằng: “Vì các hệ thống giải thích thế giới cho rằng Thiên Chúa không hiện hữu, nên các hệ thống đó là xấu, là sai, tự bản chất là quỷ quyệt”. Và cứ như vậy, mỗi phía tự chọn cho mình một thái độ riêng và lên án lẫn nhau. Sự hiểu lầm nhau giữa thế giới và Thiên Chúa giáo là ở chỗ đó. Nhưng thú thật cả hai điều có sự thật của nó. Thế giới thì biểu hiện sự khước từ Thiên Chúa qua một số biến cố rõ rệt như: các cuộc Cách mạng, các chủ nghĩa và quan niệm mới... Còn Giáo hội, lo lắng trước các diễn tiến đó, lại muốn đáp trả bằng những phương cách chống lại, tăng gia thêm tính thần linh cho các cơ cấu, cho chức quyền v.v…, tiếp theo đó là sự căng thẳng với các luồng tư tưởng triết lý mới.
![]() |
Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII phát biểu khai mạc Công đồng Vatican II |
Chúng ta có thể liên tưởng đến việc tuyên bố về tín điều bất khả ngộ của giáo hoàng của Công đồng Vatican I dường như giúp gia tăng thêm tính thần linh của vấn đề hoặc việc xuất bản thông điệp Sillabus Errorum (Recueil des 80 erreurs de notre temps: Tập hợp 80 sai lầm của thời đại chúng ta) năm 1864 của Đức Giáo Hoàng Piô IX tăng thêm sự căng thẳng với những luồng tư tưởng triết lý mới. Khi nói đến sự co rúm, sự căng thẳng, ta phải nhìn nhận rằng, vào thời đó Tòa Thánh chưa đủ khả năng để có được một loạt phân tách chính đáng, hợp lý về tính độc lập mà thế giới có quyền tự cho mình khi chủ trương mình đủ hiểu biết trong lãnh vực hữu hình, khoa học, độc lập với Giáo hội.
Phải chờ đến thời Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII để Giáo hội, cách chính thức, vượt qua được sự khép kín này. Dù thế, Giáo hội vẫn còn bị cám dỗ xem mình như một lực lượng đối lại với đà phát triển của thế giới.
Khi được bầu chọn làm Giáo hoàng, Đức Gioan XXIII được gọi là giáo hoàng chuyển tiếp. Lúc ngài quyết định triệu tập một Công đồng, toàn thể Giáo hội ngỡ ngàng. Ý hướng này không hề nhắm đến những lý do thần học. Ngài chủ trương nó như một Công đồng mục vụ chứ không có tính tín điều. Ý nguyện của ngài thật rõ ràng: Giáo hội không cần thiết lập một thể chế giáo điều mà là đặt lại đúng vị trí của Giáo hội trong thế giới. Giáo hội không cần xác định lại tính thần linh của sứ điệp của mình nhưng cần xem lại cách thức truyền đạt nó. Giáo hội không lo phải xem mình có lý, nhưng lo làm sao để lý lẽ mình đưa ra được đón nhận. Giáo hội không còn muốn trị vì nhưng muốn phục vụ. Ý hướng của Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII rất rõ: Ngài muốn dập tắt sự cách biệt thần linh mà trước đây các triều đại giáo hoàng của thế kỷ XIX và XX đã đặt để trên Giáo hội. Ngài muốn nói rõ với thế giới rằng, Giáo hội Công giáo đã thay đổi cái nhìn của mình về thế giới. Vatican II là biểu tượng hùng hồn nhất của một xác tín được chia sẻ bởi một số các vị lãnh đạo của Giáo hội. Sự khép mình lại và sự xâm nhập của tính thần linh cộng thêm sự khước từ một thế giới tân thời đã dẫn đưa Giáo hội đến một bế tắc cần phải thoát ra khỏi. Lời khai mạc Công đồng của vị Giáo hoàng ngôn sứ cho thấy ý hướng đó. Ngài nói: “Sau khi múc lấy từ Công đồng những năng lực mới, Giáo hội không sợ nhìn về tương lai… Tất cả chúng ta, không phải lo sợ gì, cần vui vẻ bắt tay vào công việc mà thời đại chúng ta đòi hỏi”. Ta thấy được hai lần cách diễn tả “không sợ”, với sự quan tâm đến “điều mà thời đại đòi hỏi”. Tầm quan trọng của Công đồng đụng đến cả ý hướng, tinh thần lẫn diễn tiến của nó.
Như vậy, dễ nhìn ra có một tinh thần mới hoàn toàn hướng dẫn Công đồng. Ngoài những văn kiện được bỏ phiếu còn có những cái gọi là không - nói - ra tiêu biểu và cái không - viết - ra quan trọng hơn. Giáo hội, trong cương vị quyền bính cao nhất, nghĩa là các giám mục tụ họp xung quanh vị giáo hoàng, chấp nhận tự giới thiệu mình một cách khác với trước đây, trước thế giới. Ý hướng này được diễn tả bằng nhiều cách thức, hữu hình, làm đánh động bao người: Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, khi được trình mũ ba tầng của giáo hoàng ngày đăng quang, đã đột xuất quyết định bán nó gây quỹ cho người nghèo. Sau đó ngài cũng đã từ chối cả ngồi kiệu dành cho các giáo hoàng trong những dịp ra mắt dân chúng, đây cũng là điều mà trước đây Đức Gioan XXIII đã định làm. Những biểu tượng của sự cai trị dần hồi được bãi bỏ. Không chỉ những thứ đó, mà còn bãi bỏ dùng tiếng La Tinh trong phụng vụ, bàn thờ quay về hướng giáo dân, việc rước lễ trên tay…, dù những thay đổi đó đã làm phật lòng một số người vì họ sợ rằng tính thần linh sẽ bị giảm sút. Những thay đổi này nói lên cả một ẩn dụ vô cùng có ý nghĩa: vai trò của tính thần linh. Ngôn ngữ La Tinh mà không ai hiểu được có là một yếu tố thần linh không? Nhận bánh thánh trong tay có là một thiếu sót trong lãnh vực thần linh không? Bái gối trước khi rước lễ có làm gia tăng tính thần linh không? Loại nhạc bình ca (grégorien) có thần linh hơn bài hát của những người trẻ với chiếc đàn ghita trong các cuộc tụ tập lớn không? Dĩ nhiên trong Giáo hội vẫn còn đó một số người nghĩ rằng thế giới đã trở nên vô thần hơn nữa bởi lẽ thế giới đã đánh mất đi khái niệm về tính thần linh, và họ cũng cho rằng Công đồng Vatican II cũng đã phần nào góp phần vào việc đánh mất đó.
Khi Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI nhấn mạnh đến chủ nghĩa tương đối, mà đối với ngài, làm cho thế giới bị lũng đoạn, xói mòn, thì điều đó có nghĩa là rất cần có một sức mạnh khác đi ngược lại với đà phát triển nguy hiểm của thế giới này. Nói lên lời phán đoán của mình về thế giới không là một tội, mà trái lại có thể là một việc làm cần thiết giúp ích cho thế giới đó. Thái độ của Đức Bênêđictô XVI không bênh vực cho một quyền lực chính trị hay kinh tế của Giáo hội. Lối phân tách của ngài là một suy tư căn bản, với những luận chứng rất vững chắc soi sáng cho người tín hữu.
Một Giáo hội thật sự có tính cách toàn cầu, phổ quát, thì không tỏ ra thuộc về một thành phần nào, hay một ý thức hệ nào, hay nghiêng về những quyền lợi nào, mà chủ đích là phục vụ người nghèo hèn, yếu kém. Một Giáo hội như thế chắc hẳn sẽ là cơ chế mà nhân loại cần đến trong thế giới này. Trong lịch sử cũng như trong ơn gọi của Giáo hội, tất cả đều thúc giục Giáo hội đóng vai trò thiết yếu này. Vị Thủ lãnh của Giáo hội - Chúa Kitô - vẫn tuyên bố rằng Người không đến cho những người lành mạnh nhưng cho những kẻ đau yếu. Giáo hội cần lấy đó làm kim chỉ nam cho hành động của mình để những khuôn mặt sáng ngời của những con người như Mẹ Têrêsa, Jean Vanier hay Roger Schutz của Taizé không là những cá biệt. Đúng là Giáo hội không hề vắng bóng trong những loại hoạt động như các ngài, nhưng Giáo hội chưa hiện diện đủ trong các lãnh vực đó.
Giáo hội hoàn vũ có khả năng cân bằng được tình trạng mất cân bằng của toàn cầu hóa - có tính buôn bán - là một Giáo hội dành vị trí ưu tiên cho người nghèo, một Giáo hội đón nhận sự yếu đuối mà không dùng đến quyền lực của mình. Với sự giảm sút về sống đạo của phương Tây, điều có thể coi như niềm an ủi chính là chúng ta tự khám phá được rằng, chính khi mình yếu kém là lúc mình cảm thấy mạnh mẽ. Từ đó dần dần tiến đến được với sự yếu kém của nhân loại. Nói tóm lại, nhờ các biến cố, cuối cùng chúng ta cũng học được điều Phúc Âm đã dạy: Thiên Chúa đã sinh ra trong một máng ăn bò lừa, kẻ bé mọn và trẻ thơ được ưu tiên. Giáo hội được xây dựng trên một người đã ba lần phản bội, Thiên Chúa được Người Con chúc phúc vì đã giấu mầu nhiệm Nước Trời cho kẻ khôn ngoan và thông thái mà mạc khải cho kẻ bé mọn và đơn sơ, người Publicanô được ân nghĩa với Chúa Giêsu trong khi người Pharisiêu bị quên lãng, con chiên lạc quan trọng hơn 99 con khác.
Chúng ta có bao giờ tự hỏi vì sao những Phanxicô thành Assisi, Mẹ Têrêsa Calculta, Roger Schutz hay cha Pierre là những con người công cộng được yêu thương quý trọng bởi bao người không? Chúng ta thử nhìn gần hơn xem: Thánh Phanxicô Assisi với lối sống khó nghèo của ngài, với chim trời cá biển, với thú vật. Mẹ Têrêsa với những người chết. Jean Vanier với những người khuyết tật. Roger Schutz với người trẻ. Cha Pierre với những người vô gia cư. Lý do của sự trân trọng quý mến rộng lớn đó từ đâu? Có mối dây liên hệ nào không giữa sự rộng lớn này với tính toàn cầu không? Những con người này được toàn cầu hóa bởi họ sống trên một bình diện mà họ không còn phân biệt giữa người này với người kia nữa, họ sống một cách sâu thẳm đến nỗi những khác biệt không còn hay bị xóa nhòa. Mỗi cá nhân đó là một nhân vị đặc thù, trong một thời đại, một cách thể, một lịch sử, với những yếu đuối, những thiếu sót của riêng mình, nhưng đó không cản trở họ được đón nhận bởi tất cả mọi người như những bậc thầy đầy tính nhân loại, và vì thế họ như những biểu tượng của cái toàn cầu. Họ đã sống đơn giản khi đem lòng thương xót của Thiên Chúa cho những người khác, những người yếu kém, người bị lãng quên, bị khinh khi. Phúc Âm được sống là một Phúc Âm toàn cầu, vượt lên trên những khác biệt văn hóa, ngôn ngữ, môi trường xã hội, tôn giáo.
Và đó chính là đường hướng mà Công đồng Vatican II muốn đem đến cho người tín hữu và thế giới hôm nay. Đó cũng là cách giới thiệu một khuôn mặt tươi trẻ, mới mẻ của Giáo hội, một Giáo hội chứng tá cho lòng yêu thương của Thiên Chúa đối với thế gian, nơi đó người Kitô hữu “sống trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian”.
Hành trình đi đến Vatican II là một hành trình trở về nguồn cội, nguồn cội của một Thiên Chúa yêu thương con người được thể hiện qua Con Người Đức Kitô, mời gọi nhân loại sống trong một cộng đồng đa văn hóa, đa tôn giáo, không còn ranh giới giữa người với người. Chúng ta, những tín hữu, có dám dấn bước vào thách đố này không?
Nữ tu TRẦN THỊ QUỲNH GIAO, Fmm
Bình luận