Tổ chức dòng tu Công giáo ở Việt Nam từ buổi đầu đến nay
THỜI KỲ TỪ NĂM 1954 ĐẾN 1975
Đây là thời kỳ đất nước Việt Nam bị chia cắt 2 miền, miền Bắc và miền Nam. Vì vậy nghiên cứu về dòng tu Công giáo thời kỳ này là nghiên cứu về dòng tu Công giáo ở mỗi miền.
Dòng tu Công giáo ở miền Bắc thời kỳ từ năm 1954 đến 1975
Công cuộc di cư vào Nam kéo theo hầu hết các dòng tu nam, nữ ra đi. Với dòng tu nam ở miền Bắc chỉ còn dòng Chúa Cứu Thế ở Thái Hà (quận Đống Đa, Hà Nội ngày nay) và dòng Châu Sơn (Nho Quan, Ninh Bình). Dòng tu nữ chỉ còn một số dòng Mến Thánh Giá ở giáo phận Phát Diệm, giáo phận Hà Nội...
Dòng tu Công giáo ở miền Nam thời kỳ từ năm 1954 đến 1975
Việc hầu hết các dòng tu nam, nữ ở miền Bắc di cư vào Nam đã làm cho số lượng dòng tu ở miền Nam tăng lên đột biến. Các dòng tu nam như Đa Minh, Đồng Công..., các dòng tu nữ như Mến Thánh Giá... tiếp tục củng cố và phát triển. Thời kỳ này ở miền Nam xuất hiện một loạt dòng nữ tu mới như dòng Nữ Vương Hòa Bình (1959), dòng Nữ Tu Thừa Sai Đức Mẹ Trinh Vương (1959), dòng Đức Mẹ Phù Hộ (1961), tu hội Hiện Diện Và Sống (1961), tu hội Dâng Truyền (1963), Tu hội Nữ Lao Động Thừa Sai (1963), tu hội Tôi Tá Thánh Tâm (1962), dòng Nữ Tỳ Chúa Giêsu (1963), tu hội Nô Tỳ Chúa Giêsu (1967), dòng Nữ La San (1966), dòng Nữ Tỳ Thánh Thể (1970), dòng Cát Minh Bình Triệu (1974), dòng Phaolô Thiện Bản (1974), dòng Con Đức Mẹ Nam Vang (1970).
Về dòng tu nam có Dòng Tên trở lại miền Nam (1957), tu hội Đắc Lộ (1957), tu đoàn Tông Đồ Giáo Sĩ Nhà Chúa (1956), đan viện Thánh Mẫu Thiên Phước (1968), đan viện Thánh Mẫu Châu Thủy (1970), dòng Anh Em Đức Mẹ Người Nghèo (1970), dòng Thánh Gia Việt Nam (1970), dòng Lời Chúa (1972)...
Các dòng tu nam, nữ ở miền Nam có từ trước năm 1954 tiếp tục tồn tại và phát triển.
Theo Giáo luật (1917) khoản 487, bậc dòng tu là những người sống chung để đạt tới việc hoàn thiện Công giáo, nhờ bởi giữ được 3 lời khấn: Vâng lời, Khiết tịnh, Khó nghèo.
Nếu dòng tu do Tòa Thánh lập, mọi hoạt động phụ thuộc vào Giáo Hoàng hay Tòa Thánh. Nếu dòng thuộc quyền giáo phận (dòng giáo phận), thẩm quyền thuộc giám mục địa phương (giáo phận).
Tuy nhiên, công việc điều hành nội bộ của các dòng tu (cả nam và nữ) theo quyền hạn sau:
1. Tu viện trưởng, còn gọi là bề trên cả có thẩm quyền tổng quát trên toàn dòng.
2. Bề trên tỉnh, có thẩm quyền trên tỉnh dòng của mình.
3. Bề trên địa phương, có thẩm quyền trên mỗi nhà dòng.
Mỗi dòng tu có những mục đích hoạt động khác nhau, có dòng ít chú ý đến hoạt động bên ngoài (dòng chiêm niệm), có dòng nhằm mục đích truyền giáo, dòng phụ trách việc bác ái, dòng phụ trách việc giáo dục.
Dòng Chiêm niệm
Là dòng tu ít tiếp xúc với xã hội bên ngoài, sống bằng sự chiêm niệm “trong cô tịch và im lặng”, dân gian quen gọi là dòng tu kín. Có thể kể một số dòng như:
Dòng Biển Đức (Bênnêđictô), tổ chức thành những đan viện như Thiên An (Huế), Thiên Hòa (Ban Mê Thuột), Thiên Bình (Long Thành), Thiên Phước (Thủ Đức).
Dòng Xitô, vốn được tách ra từ dòng Biển Đức : Dòng có cơ sở ở Phước Sơn (Thủ Đức), Châu Sơn (Đơn Dương), Châu Thủy (Hàm Tân), Phước Lý (Biên Hòa), Thiên Phước (Bãi Dâu).
Dòng Cácmen/ Cát Minh (Carmel) với các đan viện: Cát Minh (Sài Gòn), Cát Minh (Bình Triệu), Cát Minh (Huế), Cát Minh Nha Trang...
Dòng Clara (Thủ Đức).
Dòng Tiểu Muội Chúa Giêsu: Cơ sở nhỏ bé chỉ có ở Cần Thơ, Sài Gòn và Bảo Lộc.
Dòng Truyền giáo
Dòng Tên: Năm 1957 dòng trở lại miền Nam. Dòng có 6 cơ sở ở 3 địa phương: Sài Gòn, Đà Lạt, Huế.
Dòng Đa Minh nam: ở miền Nam có hai nhánh là nhánh Phi Luật Tân (Philippines) và nhánh Lyon (Pháp). Dòng Đa Minh Phi Luật Tân (dòng nam) có cơ sở ở Gò Vấp, Thủ Đức, Phú Nhuận, Đà Lạt.
Dòng Đa Minh nữ có cơ sở ở Tam Hiệp (Biên Hòa), Hố Nai (Biên Hòa), Đa Minh Rosa Lima (Xuân Hiệp - Thủ Đức).
Dòng Chúa Cứu Thế có cơ sở ở Huế, Kỳ Đồng, Đà Lạt, Nha Trang, Châu Ổ và một số cơ sở nhỏ ở Vĩnh Long, Cái Tàu Hạ, Túc Trưng, Cần Giờ.
Dòng Phanxicô (còn gọi là dòng Anh Em Hèn Mọn) : có cơ sở ở Thủ Đức, Nha Trang, Cù Lao Giêng, Tiểu Cần.
Dòng phụ trách việc giáo dục
Dòng Xuân Bích (Saint Sulpice) còn gọi là Tu hội Xuân Bích hay Hội Linh mục Xuân Bích (Huế).
Dòng Sư huynh La San: Đến thời điểm 1975 ở miền Nam có 10 trong số 14 địa phận có cơ sở của dòng, tu sĩ của dòng được gọi là sư huynh.
Dòng Anh Em Hèn Mọn Thánh Giuse (còn gọi là dòng Giuse Nha Trang) : Trước năm 1975 các tu sĩ của dòng từng sinh hoạt tại các giáo phận Đà Nẵng, Qui Nhơn, Nha Trang, Phan Thiết, Kon Tum, Ban Mê Thuột, Đà Lạt và Sài Gòn.
Dòng phụ trách việc bác ái
Dòng Don Bosco (Salésien Don Bosco), có nhà chính ở Gò Vấp và ba cơ sở ở Sài Gòn, Xuân Lộc, Đà Lạt.
Dòng Thánh Gioan Thiên Chúa (còn gọi là dòng Bệnh viện Thánh Gioan Thiên Chúa) năm 1954 từ địa phận Bùi Chu di cư vào Hố Nai.
Dòng Chúa Quan phòng, có cơ sở ở Cù Lao Giêng, nhà chính của dòng ở Cần Thơ.
Dòng Các bà phước thánh Vinh Sơn (Tu đoàn Nữ tử bác ái Vinh Sơn), nhà chính ở Đà Lạt.
Dòng Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ, hoạt động truyền giáo bằng công việc từ thiện, nhà chính ở Đà Lạt.
Việc phân chia các dòng như trên là dựa vào hoạt động chính của dòng và chỉ có tính chất tương đối. Bởi dòng chuyên hoạt động truyền giáo vẫn làm công việc từ thiện, bác ái. Ngược lại, dòng chuyên về hoạt động bác ái vẫn hoạt động truyền giáo.
Những dòng tu được dẫn ra theo phân loại trên chỉ là những dòng có tính tiêu biểu và chưa được cập nhật mới trong giai đoạn gần đây. Có những dòng rất khó xếp vào loại dòng chuyên hoạt động một lĩnh vực, chẳng hạn như dòng Mến Thánh Giá vừa lo truyền giáo, vừa lo việc từ thiện bác ái.
THỜI KỲ TỪ NĂM 1975 ĐẾN NAY
Sau ngày đất nước thống nhất, những năm đầu, một số dòng tu Công giáo có sự xáo trộn. Đó là việc các tu sĩ di tản ra nước ngoài, một số tu sĩ hoàn tục, kéo theo đó là sự thu hẹp không ít các cộng đoàn tu. Tình trạng này kéo dài đến trước thời Đổi mới (1986). Sau đó, dòng tu Công giáo ở Việt Nam có điều kiện mới để tái lập, củng cố, phát triển.
Tái lập dòng tu cũ
Dòng được tái lập chủ yếu là dòng Mến Thánh Giá ở miền Bắc. Bởi năm 1954, hầu hết các cơ sở dòng thuộc các địa phận miền Bắc di cư vào Nam. Việc tái lập bắt đầu từ đầu những năm 1990.
Hội dòng Mến Thánh Giá Thanh Hóa hoạt động trở lại từ năm 1990 đến năm 1992. Dòng Mến Thánh Giá Bùi Chu được tái lập ngày 2.3.1998 bởi Đức Giám mục giáo phận Giuse Maria Vũ Duy Nhất. Năm 1993, tập viện được tái lập.
Lập dòng tu mới
Dòng Chị em Đức Mẹ Người Nghèo được thành lập ngày 14.9.1992 với sự cho phép của Đức Tổng Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình.
Dòng Đức Mẹ Thăm Viếng Bùi Chu được chính thức phê chuẩn ngày 1.10.1990 bởi Đức Giám mục Giuse Maria Vũ Duy Nhất.
Dòng Mến Thánh Giá Nha Trang được Tòa Thánh La Mã cho phép chính thức thành lập và hoạt động theo pháp lý từ năm 1995. Dòng có 26 cộng đoàn trong 4 giáo phận: Nha Trang, Phan Thiết, Ban Mê Thuột, Thành phố Hồ Chí Minh.
Xu hướng liên hội dòng
Theo xu hướng này, trước hết là dòng Mến Thánh Giá; thời điểm là năm 1990 với sự liên hiệp giữa 7 hội dòng. Bản Hiến chương cho 7 hội dòng thuộc Tổng Giáo phận thành phố Hồ Chí Minh được soạn thảo và phê chuẩn năm 1990. Một số hội dòng Mến Thánh Giá thuộc các giáo phận khác do được phép của giám mục bản quyền đã thực hiện đời sống tu trì theo bản Hiến chương mới này. Kể cả hội dòng Mến Thánh Giá Los Angeles.
Ngày 2.2.2000, Đức Tổng Giám mục Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn đã phê chuẩn hiến chương vĩnh viễn cho 7 Hội dòng Mến Thánh Giá ở Tổng Giáo phận thành phố Hồ Chí Minh.
Đến thời điểm 2003, dòng Mến Thánh Giá ở Việt Nam có 23 hội dòng với 5.000 nữ tu[1].
Cùng với dòng Mến Thánh Giá là dòng nữ Đa Minh Việt Nam. Ngày 2.5.1991, nhân 40 năm thành lập, đại diện của 4 hội dòng nữ Đa Minh là Tam Hiệp, Thánh Tâm, Xuân Hiệp và Lạng Sơn họp tại tu viện Đa Minh Ba Chuông bàn bạc cùng nhau soạn thảo một bản hiến pháp chung. Tháng 12.1995, bản hiến pháp chung được hoàn thành. Ngày 10.3.1996, các hội dòng nữ Đa Minh Việt Nam thống nhất thành lập Liên hiệp các hội dòng nữ Đa Minh Việt Nam. Từ ngày 29.4.1997, các hội dòng bắt đầu thực hiện hiến pháp chung và chấp hành cùng một nghi thức khấn dòng.
PGS.TS Nguyễn Hồng Dương
1 Giáo hội Công giáo Việt Nam, Niên giám 2004, Sđd, tr.391.
Bình luận