Ðức Giáo Hoàng Phanxicô nhắc đến lời của một người phụ nữ đã nói với ngài: “Nếu Chúa không tha thứ, thì thế gian đâu còn”. Câu nói của người phụ nữ này đã diễn tả một “cảm thức đức tin”, do ơn khôn ngoan của Chúa Thánh Thần ban cho. Cảm thức đức tin là một tài nguyên có tính sống còn đối với việc tân Phúc Âm hóa, mà Giáo hội đang nỗ lực dấn thân rao truyền. Mọi người khi nhận phép Rửa, đều tham dự vào sứ vụ tiên tri của Chúa Giêsu Kitô, trở thành “chứng tá trung thành và đích thực” (Kh 3,14). Chúa Thánh Thần xức dầu và trang bị cho họ, để họ đảm nhận ơn gọi cao cả ấy, bằng cách ban cho họ một sự hiểu biết rất cá vị và thâm sâu về đức tin. Họ có nhiệm vụ làm chứng cho Tin Mừng và cho đức tin tông truyền trong Giáo hội và giữa thế giới.
![]() |
CẢM THỨC ÐỨC TIN
Trực giáclà hiểu biết một cách trực tiếp mà không cần lý luận, phân tích. Ngôn ngữ đời thường gọi là “trực giác mách bảo”; “linh tính”hay“giác quan thứ sáu”; “dự cảm”; “Linh cảm”; “Thần linh mách bảo”… Kinh nghiệm cho thấy trong chiến tranh nhiều vị tướng chỉ huy, nhờ trực giác mà thoát hiểm nguy. Hoặc có những doanh nhân, nhờ trực giác mà đưa ra những quyết đoán về kinh doanh thông minh, thành công lớn[1].
Cảm thức đức Tin là “một đặc tính của đức tin thần học”, là trực giác đức Tin của tín hữu, đòi hỏi trước đó có đức Tin rồi. Và làm sao nhận diện được nó? Ðâu là nguồn gốc? Ðâu là điều kiện để thi hành trực giác đức Tin cách chân chính? Rất nhiều câu hỏi đòi được trả lời trong Giáo hội ngày nay. Về phương diện mục vụ, tôi chỉ xin đề cập tới một số khía cạnh thực hành.
Trước hết, khởi đi từ Kinh Thánh. Giosuê đã xin Môsê ngăn cấm những người nói tiên tri ngoài Lều Hội Ngộ. Môsê đã trả lời: “Anh ghen dùm tôi à? Chúa ban Thần Khí của Ngài trên toàn dân của Ngài để họ đều là ngôn sứ” (Ds 11,29). Còn Chúa Giêsu công bố: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15). Tin Mừng là chính Chúa Giêsu. Thánh Gioan xác tín: “Anh em đã được Chúa Kitô xức dầu. Ngài đang ở trong anh em. Ngài đã dạy anh em mọi điều rồi và anh em không cần bất cứ ai dạy dỗ anh em nữa” (1Ga 2,20,27).
Tiếp đến Công đồng khẳng định: “Mọi người đã nhận Phép Rửa, đều tham dự, vào ba sứ vụ của Chúa Kitô là “Tiên tri, tư tế và vương đế”. Và như thế, xác tín này sẽ góp phần phá bỏ hàng ngũ giáo dân thụ động, Công đồng cho rằng: “Chúa Kitô chu toàn sứ vụ tiên tri của Người bằng cả phẩm trật cả hàng giáo dân”. Toàn thể cộng đoàn đều làm chứng cho đức Tin tông truyền.
Và lịch sử minh chứng rằng, khi cần đưa ra quyết định gì về đức tin, chứng tá giáo dân đều được các mục tử xem xét. Lịch sử có đủ bằng chứng cho thấy giáo dân đóng vai trò chính trong việc ra đời của một số định tín về tín lý. Có lúc, chính Dân Chúa, nhất là giáo dân, trực giác cảm thấy việc khai triển tín lý phải đi theo hướng nào, ngay cả khi các nhà thần học và các giám mục chia rẽ nhau về vấn đề đó. Lắm khi rõ ràng có sự đồng linh hứng, giữa các mục tử và các giáo dân. Lại có lúc, như khi Giáo hội muốn một định tín chẳng hạn, Giáo hội “tham khảo” tín hữu, và trực giác đức tin của các tín hữu khiến cho việc định tín hợp pháp. Ðiều ít được biết và thường không được chú ý đủ về vai trò của giáo dân trong việc khai triển giáo huấn luân lý của Giáo hội. Do đó, điều quan trọng là chức năng của giáo dân trong việc biện phân thích đáng phù hợp với Tin Mừng. Ở một số lãnh vực, giáo huấn của Giáo hội đã khai triển được là nhờ giáo dân khám phá ra các điều phải làm. Căn cứ trên các hoàn cảnh mới, suy tư của các nhà thần học, và sau đó phán đoán của huấn quyền giám mục, đều dựa vào cảm nghiệm của Kitô hữu, vốn được trực giác làm cho sáng tỏ trước đó.
Công đồng Vatican II tuyên bố: “Toàn thể dân thánh, kết hợp với các mục tử của mình”, hàng giáo phẩm và hàng giáo dân, cả hai thực tại tạo thành “kho tàng thánh duy nhất của Lời Chúa”, vốn “được ủy thác cho Giáo hội”. Cảm thức Ðức Tin có 2 thực tại khác biệt nhau, dù có liên hệ mật thiết với nhau. Một đàng là tín hữu cá thể, nhờ các Bí tích Khai tâm, và nhờ cử hành Thánh Thể, đã tham dự cách riêng vào đức tin và vào đời sống Giáo hội. Một đàng, là bản năng đức tin của chính Giáo hội. Nhờ đó, Giáo hội nhận biết Chúa và công bố lời của Người. Sự đồng thuận đóng một vai trò sống còn trong Giáo hội:sự đồng thuận của các tín hữulà tiêu chuẩn chắc chắn để ta xác nhận đức tin tông truyền hay không.
LÀM THẾ NÀO BIỆN PHÂN CẢM THỨC ÐỨC TIN?
Theo Ðức Giáo hoàng Gioan Phaolô II: “Cảm thức đức tin “không nhất thiết ở việc đồng thuận của tín hữu”. Nhiệm vụ của các mục tử Giáo hôi là “phát huy trực giác đức tin, khảo sát và phán đoán một cách có thẩm quyền, tính chân chính trong các phát biểu của nó, và giáo dục tín hữu trong việc biện phân Phúc Âm một cách trưởng thành hơn”.
Cảm thức đức tin còn được thể hiện qua“Lòng đạo bình dân”. Chúa Giêsu cho thấy: “Lạy Cha, là Chúa Tể trời đất, Con tạ ơn Cha vì Cha đã giấu những điều này khỏi kẻ khôn ngoan và thông thái và đã tỏ chúng cho các người bé nhỏ” (Mt 11,25; Lc 10,21). Ðó cũng là hình thức biểu hiện đức tin Kitô giáo nơi dân Chúa trong Giáo hội. Ðúng hơn, chỉ “sự khôn ngoan Kitô giáo của dân Chúa” được biểu hiện qua muôn vàn phương cách. Sự khôn ngoan này “tổng hợp một cách sáng tạo thần linh và nhân linh, Chúa Kitô và Ðức Mẹ, hiệp thông và định chế, cá nhân và cộng đồng, đức tin và quê hương, trí hiểu và xúc cảm” và nó cũng là “nguyên tắc biện phân” và là “bản năng phúc âm”. Nhờ đó, họ tự phát, cảm nhận được lúc nào thì Tin Mừng được phục vụ trong Giáo hội và lúc nào nó trở thành trống rỗng nội dung và bị các quyền lợi khác làm cho tê cứng. Như thế, lòng đạo bình dân rõ ràng có liên hệ mật thiết với trực giác đức tin, nên cần được xem xét cẩn thận. Cần phải nhìn nhận cách riêng rằng lòng đạo bình dân là hình thức đầu tiên và nền tảng nhất của việc ‘hội nhập văn hóa’ đức tin. Lòng đạo này là một thực tại tôn giáo được Chúa Thánh Thần thúc đẩy và hướng dẫn; Người là Ðấng đã xức dầu cho dân Chúa để họ đảm nhiệm “chức tư tế thánh thiện”. Ðiều tự nhiên đối với chức linh mục phổ quát của dân này là tìm cách phát biểu bằng nhiều cách khác nhau. Có thể nói lòng đạo bình dân “được điều hướng tốt” khi nó có tính “Giáo hội” thực sự. Ðức thánh Gíao Hoàng Phaolô VI, đã chỉ ra các tiêu chuẩn chắc chắn cho tính Giáo hội này, dó là “được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa”. Ðức Giáo Hoàng Phanxicô từng cho thấy rõ “sức mạnh truyền giáo” của lòng đạo bình dân, và xem ra ngài muốn nói tới trực giác đức tin khi quả quyết rằng “nâng đỡ lòng đạo bình dân” là cả “một sức mạnh phúc âm hóa tích cực mà ta không nên đánh giá thấp, vì đánh giá thấp là không biết nhìn nhận công trình của Chúa Thánh Thần”. Cho nên, điều hết sức quan trọng là phải biện phân và lắng nghe tiếng nói của “những người bé nhỏ biết tin” (Mc 9,42). Có một sự bình đẳng đích thực về phẩm giá nơi mọi tín hữu, vì nhờ Phép Rửa, tất cả mọi tín hữu đều được tái sinh trong Chúa Kitô. “Vì sự bình đẳng này, tất cả mọi người trong số họ đều góp phần, mỗi người theo hoàn cảnh hay chức vụ riêng, vào việc xây dựng Nhiệm Thể Chúa Kitô”. Cho nên, mọi tín hữu “đều có quyền, và có bổn phận, theo hiểu biết, khả năng và địa vị của mình, mà bày tỏ với các mục tử quan điểm của mình về các vấn đề liên quan tới lợi ích của Giáo Hội”. “Họ có quyền làm cho quan điểm của mình được các Kitô hữu khác biết đến, nhưng khi làm thế, họ phải luôn luôn tôn trọng sự vẹn toàn của đức tin và luân lý, tỏ lòng kính trọng các mục tử và để ý tới ích chung và phẩm giá các cá nhân” và dĩ nhiên điều này trước tiên đòi hỏi tín hữu phải có đức tin rồi, vì chính kinh nghiệm sống đức tin giúp tín hữu biết biện phân liệu một học lý nào đó có thuộc kho tàng đức tin hay không. Thành thử, các tín hữu, và đặc biệt các tín hữu giáo dân, phải được các mục tử của Giáo hội cư xử một cách kính trọng và ân cần, và được tham khảo cách thích đáng vì lợi ích của Giáo hội.
Lm. Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh (D.Min.)
_______________________________________
1 Donald Trump và Conrad Hilton
Bình luận