VIỆC CƯỚI XIN
Với người Việt nói chung, người Công giáo nói riêng, cưới xin là một việc hệ trọng. Trong dân gian truyền tụng câu : “Tậu trâu, cưới vợ, làm nhà. Trong ba việc ấy thực là khó thay”. Người Việt có rất nhiều nghi lễ liên quan đến cưới xin. Nghi lễ thường là rườm rà, nên một đám cưới dù được chuẩn bị kỹ càng đến đâu vẫn bị chê trách bởi người đời có câu “Ma chê, cưới trách”. Tuy nhiên cưới xin có phong tục của nó, những điều cốt yếu đã được dân gian chuẩn hóa.
Người Việt theo Công giáo liệu có còn giữ phong tục cưới xin truyền thống của dân tộc?
Trước khi trả lời câu hỏi này, thiết nghĩ cần hiểu đôi chút về nghi lễ cưới xin của đạo Công giáo. Cưới xin được đạo Công giáo nâng lên thành bí tích gọi là Bí tích Hôn phối. Vào thời kỳ trước 1945, Công giáo Việt Nam gọi Bí tích Hôn phối là Phép nhất phu, nhất phụ (Phép một vợ, một chồng).
![]() |
Tiến hành truyền giáo, phát triển đạo ở Việt Nam, một thời gian dài do những điều kiện và hoàn cảnh khó khăn như thiếu linh mục, chịu ảnh hưởng của chính sách cấm đạo, Bí tích Hôn phối không được thực hiện một cách triệt để. Trước tình hình đó, ngày mồng 2 tháng 8 năm 1907, Hồng y Preneste làm đầu Tòa Áp việc công đồng đã vâng lệnh Ðức Thánh Pha pha1 Piô X truyền sắc về sự giao hứa lấy nhau cùng về phép nhất phu, nhất phụ. Trên cơ sở sắc của Tòa Áp việc công đồng ngày 31 tháng Juliô (7) 1908, tại Kẻ Sở, Ðức Giám mục Phêrô Maria Ðông ra Thư chung về phép nhất phu, nhất phụ2. Thư gồm 5 đoạn.
Ðoạn thứ nhất: Lề luật cội rễ phép nhất phu, nhất phụ.
Ðoạn thứ hai: Những ngăn trở cần phải biết hơn.
Ðoạn thứ ba: Mẫu mực phải giữ cho được lấy nhau cử phép thánh Yghêrêgia.
Ðoạn thứ bốn: Mẫu mực phải giữ cho được tra bạn trước đã chết, cùng về sự hỏi bạn vô đạo3 những điều phép đạo dạy hỏi.
Ðoạn thứ năm: sắc mới Tòa Thánh.
Về phép nhất phu, nhất phụ, đây là một bức thư rất quan trọng, lý giải được phần lớn những vấn đề mà chúng ta quan tâm đến Bí tích Hôn phối như gốc tích của việc nâng hôn nhân lên thành bí tích, việc thực hiện bí tích theo thủ tục phần đời và thủ tục phần đạo ra sao.
Những quy định trong Thư chung này không chỉ thực hiện lúc đương thời mà còn được duy trì mãi tới sau này. Tuy chỉ là thư của giám mục địa phận Tây Ðàng Ngoài, xong qua tìm hiểu, nghiên cứu, chúng tôi thấy nó có ảnh hưởng tới các địa phận khác, ngay cả địa phận Ðông vốn chịu sự quản lý của dòng Ða Minh.
Về nguồn gốc của phép nhất phu, nhất phụ, Thư chung giải thích rất ngắn gọn, xin trích nguyên văn:
“Vậy từ đầu Ðức Chúa Lời đã lập hai lề luật buộc kẻ ở bậc vợ chồng phải giữ, một là vợ chồng phải ở cùng nhau mãi cho đến chết, nghĩa là không được lìa bỏ nhau mà đi kết bạn cùng người khác; hai là phải cứ một vợ một chồng mà thôi, về sau Ðức Chúa Giêsu đã nhắc lại những điều ấy tỏ tường; Vì chưng trong sách Evan4 chép rằng: “Có một ngày kia kể cả trong dân Judêu hỏi Ðức Chúa Giêsu rằng: Lạy thầy, vợ chồng có được rẫy bỏ nhau vì lẽ nào chăng? Thì Ðức Chúa Giêsu phán rằng: Trong lề luật chép làm sao? Chớ thì chẳng thấy chép rằng: Từ đầu hết Ðức Chúa Lời mới dựng nên loài người thì dựng nên một người nam và một người nữ ư? Ðoạn Người thêm rằng: nhân vì sự ấy người ta sẽ bỏ cha mẹ mà kết hợp cùng bạn mình: cả và hai nên một xương thịt với nhau, bởi đấy đã nên một chẳng còn hai. Ấy vậy Ðức Chúa Lời đã kết hợp lại, thì người ta không được phân rẽ ra. Mà ta nói thật cùng bay, hễ ai rẫy vợ mình mà lấy người khác thì phạm tội ngoại tình, mà kẻ nào lấy người đã phải rẫy ấy cũng phạm tội ngoại tình nữa”. Ta suy các lời ấy thì phải tin thật lề luật Ðức Chúa Giêsu đã lập về phép nhất phu, nhất phụ buộc vợ chồng ở cùng nhau cho đến trọn đời, lại phải cứ một vợ một chồng mà thôi”.
Ðoạn thứ hai: Về những ngăn trở cần biết hơn.
Với tín hữu Công giáo trước khi kết hôn phải tính đến những ngăn trở vì ai mắc phải dù vô tình hay hữu ý, tuy đã kết hôn có linh mục làm phép thì vẫn không thành.
Thư chung đưa ra một loạt sự ngăn trở với sự giải thích khá tường tận.
Ngăn trở bởi sự ép: Cha mẹ họ hàng ép gả con cái.
Ngăn trở bởi thiếu tuổi: ít nhất con trai 16, con gái 13. Tuổi tính tròn theo tháng, không tính tuổi mụ, không khai tăng tuổi. Khai tăng sẽ mắc tội trọng.
Ngăn trở bạn trước còn sống: Khi đã kết bạn rồi phép cấm nhặt không được lấy vợ, lấy chồng khác đang khi bạn trước còn sống.
Ngăn trở bởi họ hàng. Gồm: họ máu (họ tộc) trong vòng 4 đời không được kết hôn. Họ máu ở đây được tính cả họ ngoại, người cùng cha khác mẹ hay ngược lại. Hai người đã lấy nhau, một trong hai người qua đời không được kết hôn với người trong họ tộc người kia trong vòng 4 đời kể từ người kết hôn đã qua đời được tính làm một đời. Họ thiêng liêng: Kẻ rửa tội hoặc làm phép Thêm sức cho người nào thì họ hàng với người đó.
Vào thời kỳ xã hội phong kiến Việt Nam tục đa thê còn khá phổ biến, việc ép gả con cái còn thịnh hành, thì những quy định về sự ngăn trở trên mang tính nhân bản rất rõ rệt, loại trừ được những tệ lậu tảo hôn, những hành vi đánh đập vợ để lấy vợ hai, vợ ba. Những quy định ngăn trở trên hòa nhập với văn hóa người Việt, góp phần gìn giữ và bồi trúc phong hóa. Rõ ràng trên lĩnh vực này Công giáo đã có những đóng góp nhất định.
Ðoạn thứ ba: Mẫu mực phải giữ cho được lấy nhau cứ phép đạo. Trong đoạn này có những quy định khá lý thú. Trước hết Thư chung quy định về việc theo thói phần đời là cấm việc nam, nữ chưa làm phép giao, phép cưới ở nhà thờ mà đã về nhà nhau để ở.
(Còn tiếp)
PGS.TS Nguyễn Hồng Dương
___________________________________________________
1. Ðức Thánh Pha pha: Giáo hoàng
2. Sách thuật lại các Thư chung địa phận Tây Ðàng Ngoài. Sđd
3. Chỉ người không phải là tín đồ đạo Công giáo.
4. Evan: Phúc Âm
Bình luận