LỐI SỐNG CÔNG GIÁO TRONG VĂN HÓA VIỆT NAM
Cần phải nói ngay rằng, lối sống Công giáo mà chúng tôi đề cập dưới đây là lối sống của giáo dân. Lối sống của giáo dân rất đa dạng, chúng tôi chỉ đi vào nghiên cứu lối sống đạo, mà lối sống đạo thể hiện trong mối giao lưu của văn hóa Việt Nam về lối sống. Ở đây chúng tôi cũng không đi vào khái niệm thế nào là lối sống, tất nhiên khi viết về lối sống của giáo dân, chúng tôi cũng phải xuất phát từ khái niệm và nội hàm của lối sống.
Về phương pháp trình bày, chúng tôi cố gắng trình bày từng vấn đề theo thời gian để thấy quá trình vận động, phát triển của vấn đề trình bày. Song do hạn chế về mặt tư liệu, mốc thời gian lớn nhất của chúng tôi sẽ trở đi trở lại trong các vấn đề được lấy là thời điểm của Công đồng Vatican II để phân định trước đó và sau đó.
Lối sống của giáo dân và toàn bộ những ứng xử đối với đời sống tâm linh và đời sống xã hội được hình thành trong tiến trình lịch sử truyền giáo, phát triển đạo Công giáo vào Việt Nam dựa trên nền tảng của Kinh Thánh, của triết lý Công giáo, giáo luật, giới răn… và bị chi phối bởi lối sống phong tục, tập quán và tâm linh tôn giáo - văn hóa truyền thống của người Việt.
Muốn hiểu thế nào là lối sống của giáo dân, trước hết chúng ta tìm hiểu giáo dân là gì?
![]() |
Một cuộc rước kiệu Công giáo cổ truyền |
GIÁO DÂN
Trước hết, từ “giáo dân” xuất hiện từ lúc nào trong lịch sử ?
Sách Ðại Nam Thực Lục chính biên viết: Tự Ðức 21, mùa thu (1868), Giám mục Ðông (nguyên ở Hà Nội giảng đạo), Giám mục Hậu, Giám mục Bình đệ đơn đến Bộ Lễ đổi bốn chữ “Tả đạo”, “dữu dân”. Bộ Lễ cho là triều đình thương dân như một vốn không có phân biệt, phàm kính làm sổ sách hoặc khi có giấy tờ đổi viết là dân đạo, dùng để nhớ mà thôi. Vua y cho.
Sách trên chú giải:
- Tả đạo: đạo bất chính, tà đạo (trái với chính đạo).
- Dữu dân: chữ dữu nghĩa đen là cây cỏ lồng vực giống cây lúa, mọc xen trong khóm lúa làm hại lúa. Nghĩa bóng là: xấu; tập nhiễm thói xấu, thói ác gọi là dữu; dân tục thiện gọi là “lương”, ác gọi là “dữu”. Thời Tự Ðức dùng chữ Dữu này để chỉ bên dân giáo. Trong bộ sử này, chữ “dữu dân” vẫn dịch là “dân giáo” để cho dễ hiểu…[1]
- Trên cơ sở của điều khoản thứ IX, trong Hòa ước 1874 niên hiệu Tự Ðức 27, năm này vua Tự Ðức: “chuẩn cho dân đi đạo gọi là giáo dân, dân đi lương gọi là bình dân”. Từ trước đến nay, dân đi đạo gọi là dữu dân từ khi bỏ cấm các chữ dữu, chữ tả chỉ gọi đơn giản là chữ đạo. Gần đây cứ như lời Khâm sứ đóng ở kinh nói rằng: Lương, đạo đều gọi, chưa khỏi sỉ nhục giáo ấy. Ðã chuẩn cho quan ở Nha thương đem nghĩa của hai chữ ấy trả lời, nói: Lương là an thường, thủ phận, không làm gian ác. Ðạo là khuyên người làm điều lành, không làm bất chính, hai chữ đối nhau, văn nghĩa giống nhau, lại tốt xấu gì, Ðạo gọi là Ðạo thì Lương gọi là Lương thì gọi là gì? Rồi sứ ấy đã biết chữ Lương không thể bỏ được lại yêu cầu phàm những người theo giáo ấy gọi là nghĩa dân, Ðức dân, quan ở Nha Thương bạc cho là sứ ấy đã nói nhiều thế, xin gọi là giáo dân. Vua y cho, nhân chuẩn cho dân lương cũng đổi gọi là bình dân[2].
Vậy là ít ra vào thời vua Tự Ðức, tín hữu theo đạo Công giáo đã được gọi là giáo dân trong các văn bản chính thức của nhà nước. Tuy nhiên đây đó trong các văn bản, trong sách báo, giáo dân còn được gọi khác nhau: giáo hữu; đạo hữu; Kitô hữu; chiên; Chiên Chúa; Dân Thiên Chúa; Nhân Danh...
Vì Chúa Giêsu được gọi là Người Mục tử nhân lành nên những người đi theo Chúa được gọi là Con Chiên[3] hay Chiên Chúa. Chiên Chúa đầu tiên là nhóm 12, sau trở thành 12 tông đồ, trụ cột của Giáo hội tiên khởi.
Công đồng Vatican II, chương IV - GIÁO DÂN - phần mở đầu viết:
“Sau khi xác định những chức vụ của phẩm trật, thánh Công đồng sẵn lòng đề cập đến bậc sống của những người Kitô hữu được gọi là giáo dân. Mặc dù tất cả những gì nói về dân Thiên Chúa đều có liên quan đến giáo dân, tu sĩ và giáo sĩ, vì địa vị và sứ mệnh của họ, những điều mà hoàn cảnh đặc biệt của thời đại chúng ta đòi hỏi phải tìm hiểu nền tảng chung cách thấu đáo hơn”.
Công đồng Vatican II viết tiếp: “Giáo dân... là tất cả những Kitô hữu không thuộc hàng giáo sĩ và bậc tu trì được Giáo hội công nhận, nghĩa là Kitô hữu được tháp nhập vào thân thể Chúa Kitô nhờ phép Rửa tội, đã trở nên dân Chúa và tham dự vào chức vụ Tư tế, tiên tri và vương giả của Chúa Kitô theo cách thức của họ”.
Giáo luật khoản 204 viết về giáo dân như sau: “Tín hữu (giáo hữu) là người nhờ Bí tích Rửa tội mà liên kết với Chúa Kitô, gia nhập dân Thiên Chúa và như vậy được thông phần chức tư tế, tiên tri và vương giả của Chúa Kitô, cùng được mời gọi cộng tác vào sứ mạng mà Thiên Chúa đã trao cho Giáo hội để chu toàn nơi trần gian, mỗi người theo điều kiện riêng của mình”.
Về địa vị: Do quan niệm chỉ có một Thiên Chúa, một đức tin và một phép rửa (Eph 4, 5) nên các giáo dân trong Giáo hội đều bình đẳng như nhau : “Vì thế trong Chúa Kitô và trong Giáo hội, không có sự hơn kém vì nguồn gốc hay dân tộc, vì địa vị xã hội hoặc vì nam, nữ”.
Giáo luật khoản 208 viết: Do sự tái sinh trong Chúa Kitô, mọi tín hữu đều có sự bình đẳng thực sự về địa vị và hành vi, nhờ đó hết thảy cộng tác vào việc xây dựng nhiệm thể Chúa Kitô, theo điều kiện và nhiệm vụ riêng của từng người.
(còn tiếp)
PGS.TS Nguyễn Hồng Dương
___________________________________________
1 Quốc sử quán triều Nguyễn: Ðại Nam Thực Lục chính biên. Tập 33. Nxb KHXH, 1975, tr. 122
2 Ðại Nam Thực Lục chính biên. Tập 33, Nxb KHXH, Hà Nội, 1875, tr 122-123.
3 Chiên: nghĩa đen là con cừu.
Bình luận