Niềm tin và Thực hành nghi lễ công giáo
Tham dự thánh lễ
Ngoài việc tham gia lễ trọng (lễ buộc), giáo dân còn phải tham gia thánh lễ Chúa nhật, lễ hằng ngày ở nhà thờ và cầu nguyện ở nhà. Mức độ của các buổi lễ trên là: thường xuyên, thỉnh thoảng và không.
Vào thời kỳ linh mục Ðắc Lộ, nửa đầu thế kỷ XVII, giáo dân đã có thói quen đọc kinh sớm tối, cầu nguyện ở nhà hoặc ở một cơ sở tôn giáo. Tập tục ấy được duy trì cho đến tận ngày nay. Tỷ lệ giáo dân tham gia lễ hằng ngày một cách thường xuyên ở nhà thờ là 56,1%, trong số tham dự lễ hằng ngày chỉ có 1/2 chịu phép Thánh Thể (29,5%). Sở dĩ có tình trạng như vậy vì nguyên tắc người chịu phép Thánh Thể phải sạch tội, nếu không thì việc chịu phép Thánh Thể không thành sự. Tỷ lệ giáo dân không tham dự lễ hằng ngày ở nhà thờ là 17,75% (137 người) theo chúng tôi đây là tỷ lệ thấp.
![]() |
Còn phần cầu nguyện ở nhà? Tỷ lệ thường xuyên là rất cao 80,15%. Như vậy, giáo dân vừa đi lễ hằng ngày ở nhà thờ vừa cầu nguyện hằng ngày ở nhà. Thường thì nếu sáng đến lễ ở nhà thờ, thì buổi tối cầu nguyện ở nhà và ngược lại.
Cũng cần phải nói thêm rằng cộng đồng giáo dân Việt Nam có thói quen đến nhà thờ cầu kinh trước thánh lễ, sau thánh lễ cũng còn một số người cầu nguyện cách riêng.
Trong gia đình, phong tục cầu nguyện ở nhà vào buổi sáng trước khi đi làm và buổi tối trước khi đi ngủ đã trở thành một nếp, một phong tục lâu đời. Các nhà nghiên cứu Kitô giáo cũng như các giáo sĩ Công giáo ngoại quốc khi đến Việt Nam đã không khỏi ngạc nhiên về việc duy trì phong tục lâu đời đọc kinh sớm tối của giáo dân Việt Nam.
Tỷ lệ giáo dân tham dự thường xuyên thánh lễ ngày Chúa nhật cao hơn tỷ lệ giáo dân tham dự thường xuyên thánh lễ hằng ngày ở nhà thờ, cầu nguyện ở nhà. Với tỷ lệ 92,1% giáo dân thường xuyên tham dự thánh lễ Chúa nhật cho thấy giáo dân Việt Nam thực hiện nghiêm túc Ðiều Răn thứ nhất và cũng là cũng điều răn cực kỳ quan trọng của Giáo hội. Nếu cộng cả tỷ lệ giáo dân thỉnh thoảng tham dự lễ Chúa nhật, tỷ lệ sẽ là 97,1%. Giáo dân không dự thánh lễ Chúa nhật là 2,9% (22 người). Tỷ lệ này chỉ bằng 2/3 tỷ lệ giáo dân không chịu bí tích Mình Thánh Chúa.
![]() |
Lãnh nhận Bí tích
Phía điều tra xã hội học tôn giáo còn điều tra về việc giáo dân có hay không chịu các Bí tích Rửa tội, Thêm sức, Hôn phối. Ðối với ba bí tích này, đáng tiếc chỉ tiến hành ở thành phố Huế, thành phố Hồ Chí Minh, còn các nơi khác không đặt ra.
Ðiều đáng lưu ý ở đây là khi tiến hành phỏng vấn 400 người chỉ có 1 người không chịu Bí tích Rửa tội, cũng có nghĩa là không được chịu Bí tích Thêm sức.
Tỷ lệ tín hữu chịu Bí tích Rửa tội và Bí tích Thêm sức có thể nói là tuyệt đối. Bởi đó là đầu của các Bí tích khác. Một trường hợp không chịu các Bí tích, vậy sao họ vẫn xem mình là giáo dân. Có thể tín hữu này là bố hoặc mẹ hoặc của hai lỗi đạo, nên họ đã không được hưởng các Bí tích Rửa tội, Thêm sức. Tuy vậy, có thể do lòng sùng đạo, do ăn năn mà họ vẫn đến nhà thờ thực hiện các nghi lễ như một tín hữu thực thụ.
Tỷ lệ giáo dân không làm phép hôn phối tới 34,9%, theo chúng tôi là tỷ lệ cao. Nếu tách ra thì tỷ lệ nữ không chịu phép hôn phối 41% (77 người), nam giới không thực hiện phép hôn phối 28,8% (61 người). Có thể lý giải tình trạng này như sau, từ sau Công đồng Vatican II, giáo dân được phép kết hôn với người ngoại đạo. Trong trường hợp ấy, lễ cưới vẫn có thể được tổ chức ở nhà thờ, nhưng ở đó linh mục chỉ làm phép tha, phép chuẩn, thánh lễ hôn phối sẽ không diễn ra. Và như vậy thì “đạo ai lấy giữ” - một cách nói dân gian.
![]() |
Ngày nay, xứ đạo Công giáo không còn khép kín như xưa. Thanh niên nam nữ là giáo dân, nhiều người học các trường học, làm thợ ở các xí nghiệp... Ở đó họ tìm hiểu và kết hôn với người ngoại đạo. Vì những lý do khác nhau mà nhiều người trong số họ đã không đến nhà thờ chịu phép Hôn phối. Song cũng có những trường hợp ngược lại, nhiều người trước đây không làm phép Hôn phối nhưng khi họ đã lên ông, lên bà mới đến nhà thờ làm lễ Hôn phối. Vì chỉ có chịu phép Hôn phối thực sự mới được chịu Bí tích Xưng tội và Bí tích Mình Thánh Chúa.
Kết quả điều tra xã hội học tôn giáo đã minh chứng một điều hiển nhiên là giáo dân Việt Nam có niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa. Niềm tin tuyệt đối đó còn thể hiện qua việc thực hành nghi lễ mà chủ chốt là tham dự các bí tích với tỷ lệ cao như Bí tích Rửa tội, Bí tích Thêm sức gần như tuyệt đối. Giáo dân tham dự ngày lễ trọng đầy đủ và lễ Chúa nhật ở nhà thờ thường xuyên với tỷ lệ cao.
(còn nữa)
PGS.TS Nguyễn Hồng Dương
Bình luận