Ẩn mình trong một góc khiêm nhường ven biển phía Bắc, phường Bắc Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa, đan viện Cát Minh Nha Trang đã hiện diện ở đây từ năm 1961.
Hành trình hồi hương
Tiền thân của đan viện Cát Minh Nha Trang là Cát Minh Thanh Hóa, một cộng đoàn đan tu âm thầm sống đời chiêm niệm giữa lòng đất Bắc. Nhưng rồi, năm 1953, vì chiến tranh, các nữ đan sĩ đã rời đan viện qua Pháp. Trước giờ chia tay, chị em cùng nhau dâng lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, nếu Chúa cho chúng con đoàn tụ cùng một nhà và nếu Chúa đưa chúng con về lại Việt Nam, để thiết lập lại đan viện ở nơi nào Chúa muốn, thì chúng con xin nhận Chúa Kitô Vua và Đức Mẹ Maria Nữ Vương của sự hiệp nhất làm quan thầy cho nhà mới chúng con”.
Rồi Chúa quan phòng dẫn đường, các chị em Cát Minh chia thành ba nhóm - nhóm đầu tiên rời đi ngày 13.8, nhóm kế tiếp khởi hành ngày 24.8, và nhóm cuối cùng đến được Đan viện Moulins (Pháp) ngày 25.2.1955. Trước khi rời mảnh đất quê hương, một chị đã đem nắm đất quê nhà mang sang tận Lộ Đức, như một dấu chỉ tình yêu gói ghém trong nắm đất nhỏ nhoi. Sau cùng, tất cả đã đoàn tụ ở Moulins, khởi đầu một giai đoạn mới cho đời tu âm thầm nhưng đầy niềm tin. Sáu năm ở đất khách, nỗi khát khao hồi hương vẫn cháy âm ỉ nơi lòng các nữ tu. Các chị cầu nguyện không ngừng, dâng từng ngày lên Đức Mẹ Núi Cát Minh, lên Thánh Giuse để xin được trở về. Trong những buổi nguyện ngắm, ai biết được lòng các chị đã mường tượng bao lần hình bóng quê nhà…
Chính từ hang đá Đức Mẹ Lộ Đức, cánh cửa hồi hương đã được mở ra. Qua lời ngỏ ý từ đan viện Carmel Moulins, Đức cha Marcel Piquet Lợi, Giám mục giáo phận Nha Trang đã chính thức mời các nữ đan sĩ Cát Minh Thanh Hóa hồi hương và thiết lập đan viện trong giáo phận của ngài. Ngài lo liệu đất đai, xúc tiến việc xây cất; còn các nữ tu chuẩn bị hành trang và chờ thủ tục giấy tờ.
Mùa thu năm 1960, giấc mơ trở về thành hiện thực. Sau những chặng dừng ở dòng Saint Paul Sài Gòn và Dòng Kín Sài Gòn, các chị em đã lên tàu lửa ra Nha Trang. Rạng sáng 1.10.1960, chuyến tàu dừng bánh. Đức cha Marcel và giáo dân Nha Trang có mặt tại ga, đón đoàn người tiên phong, những nữ tu nhỏ bé nhưng mang trong mình một hành trình với nhiều kinh nghiệm thiêng liêng dài rộng.
Công trình xây dựng tiếp tục diễn ra trong khi cộng đoàn đã khởi sự đời sống chiêm niệm. Các đan nữ vừa cầu nguyện, vừa cuốc đất trồng cây, vừa tạo dáng hình cho mảnh đất vốn cằn cỗi nay trở nên thánh thiêng. Từ khi hay tin Cát Minh Thanh Hóa hồi hương, nhiều thiếu nữ khắp nơi tìm đến xin gia nhập, nhưng cuối cùng, chỉ còn lại bốn thỉnh sinh, hoa trái đầu mùa được tuyển chọn qua lửa thử vàng.
Ngày 12.9.1961, Đức cha giáo phận chính thức cắt băng khánh thành, làm phép nhà, đóng cửa nội cấm. Đan viện Cát Minh Nha Trang chính thức khởi sinh, trung thành với lời nguyện thuở ban đầu: nhận Chúa Kitô Vua và Đức Mẹ Maria - Nữ Vương của sự hiệp nhất làm Quan thầy.
Hoa trái sau ngày gian nan
Cách đây 25 năm, vào ngày 24.7.2000, theo lời mời gọi đầy ưu ái của Đức cha Phêrô Trần Đình Tứ cùng các linh mục trong giáo phận Phú Cường, tám nữ đan sĩ Cát Minh Nha Trang đã rời tổ ấm miền duyên hải để đặt chân đến vùng đất Bến Sắn, khởi sự một hành trình đong đầy niềm tin cậy. Tựa như hạt giống âm thầm gieo xuống mảnh đất mới, cộng đoàn non trẻ ngày ấy đã kiên trì lớn lên trong đời sống chiêm niệm giữa lòng giáo phận, cho đến khi đơm hoa kết trái bằng một tên gọi đầy ý nghĩa: đan viện Cát Minh Phú Cường.
Từ những bước khởi đầu giản dị ấy, nhờ ơn Chúa dẫn dắt và sự đồng hành của Giáo hội địa phương, đan viện Cát Minh Nha Trang ngày nay đã dần khang trang hơn và có đời sống đan tu ổn định. Chính từ nền tảng ấy, các nữ tu đã mạnh dạn bước tiếp hành trình dâng hiến, quảng đại lên đường tiếp sức với những đan viện đang thiếu thốn nhân sự hoặc lập những đan viện mới.
Năm 2011, tám chị em khác đã được Đan viện Nha Trang gởi sang tái lập cộng đoàn Carmelite Monastery Mobile, thuộc tiểu bang Alabama, Hoa Kỳ. Mười năm sau, tiếp tục đáp lại lời mời gọi của Giáo hội, ba nữ tu lại lên đường đến miền Nam nước Pháp, hiện diện tại đan viện Carmel du Sacré Coeur de Figeac, thuộc giáo phận Cahors. Những dấu chân lặng thầm ấy không trống kèn, nhưng lại mang theo hơi ấm của sự cậy trông, của kinh nguyện và hy sinh, để vun bón đời sống chiêm niệm nơi những miền đất xa xôi đang khao khát sự nâng đỡ thiêng liêng.
Ngôn ngữ kiến trúc của đời chiêm niệm
Nằm ẩn mình trong một góc khiêm nhường ven biển, dòng kín Nha Trang như thể không muốn phô bày mình quá nhiều giữa phố thị đang ngày một đông đúc. Kiến trúc tổng thể của đan viện mang dáng dấp truyền thống châu Âu nhưng được tiết chế tối đa, thấm đượm tinh thần ẩn dật và chiêm niệm của dòng Cát Minh.
Toàn thể khuôn viên được quy hoạch đơn giản, gọn gàng theo kiểu “tu viện đóng”, nghĩa là mọi sinh hoạt diễn ra trong nội vi, khép kín, yên tĩnh. Lối vào đan viện là một cổng sắt sơn đen kiểu cổ, cây Thánh Giá gỗ nhỏ và giàn hoa giấy nở rộ vào những ngày nắng đẹp. Các dãy nhà thấp, mái ngói nâu đỏ, tường trắng ngà, với cửa sổ gỗ và lam che nắng bằng tre giản dị, tạo không gian thoáng đãng nhưng kín đáo.
Nhà nguyện là công trình trung tâm, được thiết kế theo hình chữ T nằm ngang vẫn thường thấy ở những dòng kín, với phần thân chữ T là nơi các đan sĩ từ nội vi vào dâng thánh lễ, gọi là “ca triều”; bàn thờ hình tròn, những dãy ghế bên ngoài vuông góc “ca triều” là nơi cộng đoàn bên ngoài tham dự. Mặt đứng đơn sơ, mái tam giác lợp ngói nâu. Mặt tiền nổi bật với phong cách kiến trúc hiện đại pha nét cổ kính, được điểm xuyết bằng các chi tiết đầy biểu tượng. Phía trên cao là Thánh Giá trắng đặt vững vàng trên nóc tam giác, biểu trưng cho đức tin và sự hiện diện vĩnh hằng của Thiên Chúa. Chính giữa mặt tiền là hai dòng chữ Latinh ánh vàng: “Ut sint unum - Để họ nên một” (Ga 17,21) và “Rex sum ego - Chính Ta là Vua” (Ga 18,37), như lời nhắc về sự hiệp nhất và vương quyền của Đức Kitô.
Ba bức tượng thánh - Chúa Giêsu Kitô Vua Vũ Trụ, Đức Mẹ và Thánh Giuse - được đặt trang trọng chính giữa, mang nét trang nghiêm, dịu hiền. Các đường cong viền xanh và trắng ôm lấy không gian mặt đứng, tạo chiều sâu nhưng vẫn giữ được sự thanh thoát. Không gian bên trong nhà nguyện được bố trí theo chiều dọc, hướng từ cửa vào đến cung thánh. Bàn thờ được làm bằng đá trắng nguyên khối, phía trên Thánh Giá cách điệu theo hình logo của dòng. Góc trái nhà nguyện là một không gian thánh thiêng quen thuộc thường thấy tại các đan viện Cát Minh, nơi đặt tượng thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu trong tư thế an nghỉ, với khuôn mặt an bình, vòng hoa trắng đội đầu, tay cầm thánh giá và bó hoa hồng, biểu tượng quen thuộc của vị thánh nữ.
Góc khuôn viên phía trái nhà nguyện là tiểu cảnh “Nữ Vương Núi Cát Minh”, một góc vườn nhỏ nhưng mang đậm tính biểu tượng và nét riêng của đan viện. Tượng Đức Mẹ bồng Hài Nhi được đặt trên nền đá đỏ tự nhiên, xung quanh là cây cỏ và hoa lá nở rộ. Phía dưới, có tượng ngôn sứ Êlia giữa bối cảnh thiên nhiên hài hòa. Tổng thể không gian mang nét kiến trúc Cát Minh nhẹ nhàng và đơn sơ, gợi lên tinh thần cầu nguyện, chiêm niệm và lòng mến sâu đậm đối với những vị thánh bảo trợ của dòng kín Cát Minh.
Ngày 16.7.2025, đan viện Cát Minh Nha Trang mừng kỷ niệm 65 năm thành lập (1960-2025) trong bầu khí ấm cúng, với sự hiện diện của Ðức cha Giuse Huỳnh Văn Sỹ, Giám mục giáo phận Nha Trang, các linh mục, tu sĩ và đông đảo thân hữu. Dịp này, đan viện cũng tri ân những người đã nâng đỡ, đồng hành suốt hành trình gieo hạt chiêm niệm trên mảnh đất miền duyên hải. |
Anh Thư
Bình luận