Quận Phú Nhuận còn 3 phường là Đức Nhuận, Cầu Kiệu và Phú Nhuận:
Từ Phú Nhuận xuất phát từ câu “Phú nhuận ốc, đức nhuận thân”, tạm hiểu là “giàu có làm đẹp nhà cửa, đức độ làm đẹp bản thân”. Vì vậy, trong những lựa chọn cho tên phường mới, quận Phú Nhuận đề xuất tên hai phường là Phú Nhuận và Đức Nhuận. Phường Đức Nhuận gộp từ phường 4, phường 5 và phường 9. Còn phường Phú Nhuận mới gồm các phường 8, phường 10, phường 11, phường 13 và phường 15 trước đó.
Dưới triều vua Gia Long và vua Minh Mạng (1802-1840), Phú Nhuận là một thôn thuộc tổng Bình Trị (sau thuộc tổng Bình Trị Hạ), huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, trấn Phiên An. Từ năm 1876 gọi là làng Phú Nhuận, thuộc hạt tham biện Sài Gòn, hạt 20, tỉnh Gia Định, rồi tỉnh Tân Bình (1944). Năm 1949, xã Phú Nhuận thuộc quận Tân Bình, tỉnh Gia Định. Sau 1975, Phú Nhuận là tên một quận thuộc TPHCM với 17 phường, đặt tên từ số 1 đến số 17.

Ngoài ra, theo nhiều ghi chép, địa danh Phú Nhuận còn gắn với một người tên Lê Tự Tài, là người miền Bắc vào đất Gia Định rất sớm. Ông Tài kêu gọi dân chúng khẩn hoang lập ấp quanh cầu Kiệu. Khi Phú Nhuận là thôn, ông Tài là thôn trưởng, đến khi Phú Nhuận là xã, ông Tài là xã trưởng, nên gọi là Xã Tài. Ông Xã Tài cho dựng lên một ngôi chợ nhỏ, cột tre mái lá trên phần đất thuộc sở hữu của ông, cao ráo gần rạch, gọi là chợ Xã Tài (ngày nay là chợ Phú Nhuận). Tên Phú Nhuận cũng xuất hiện ở cộng đồng Công giáo với sự thành lập họ đạo Phú Nhuận năm 1947. Nhà thờ Phú Nhuận cũng được xây dựng ngay sau khi thành lập, hiện tọa lạc tại ngã ba Hoàng Văn Thụ - Trần Huy liệu. Dân trong vùng sau năm 1954 hay gọi là nhà thờ Nam, để phân biệt với nhà thờ Phát Diệm (còn gọi là nhà thờ Bắc), nằm ngay ngã tư Phú Nhuận, hình thành sau di cư 1954, gồm những giáo dân có quê gốc ở giáo phận Phát Diệm thuộc tỉnh Ninh Bình.
Sau khi gộp phường 1, phường 2, phường 7 và phường 15, thành phố có một phường mới tên là Cầu Kiệu. Cầu Kiệu là một trong những cây cầu có lịch sử lâu đời tại Sài Gòn. Học giả Trương Vĩnh Ký trong các ghi chép có nhắc về cầu này, gọi là cầu số 3 (do đây là cây cầu thứ 3 bắc qua rạch Nhiêu Lộc - Thị Nghè thời bấy giờ, sau cầu Thị Nghè và cầu Bông), và cũng nói nhiều về xóm Kiệu nối vùng Tân Định với chợ Xã Tài (Phú Nhuận). Vì do dân trong vùng quanh cầu ngày trước trồng nhiều cây kiệu để làm dưa, nên lâu dần cầu được gọi quen miệng là cầu xóm Kiệu, rồi cầu Kiệu. Ngày 4 tháng 2 năm 2014, thành phố đã cho đóng cầu Kiệu cũ để phá dỡ và xây mới. Cầu Kiệu mới dài 77,2 m, có kết cấu dầm bê tông cốt thép.
Quận Bình Thạnh sau sáp nhập có 5 phường là Gia Định, Bình Thạnh, Bình Lợi Trung, Thạnh Mỹ Tây, Bình Quới.
Cần nhắc đến nguồn gốc phần diện tích tự nhiên quận Bình Thạnh hiện nay gần tương ứng với vùng đất của 5 thôn Bình Hòa, Bình Lợi Trung, Thanh Đa, Phú Mỹ và Bình Quới Tây, thuộc tổng Bình Trị, huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, trấn Phiên An, được Trịnh Hoài Đức ghi nhận trong danh sách các xã thôn trong Gia Định thành thông chí. Như vậy, tên 4 phường Gia Định, Thạnh Mỹ Tây, Bình Lợi Trung, Bình Quới... đều là những tên làng từ ngày xưa gắn liền với vùng đất này.
Đầu tiên là phường Gia Định, sẽ hình thành từ việc nhập bốn phường 1, 2, 7 và 17 lại. Gia Định là tên phủ, được thành lập năm 1698, gồm hai huyện Phước Long và Tân Bình, trải rộng từ Bà Rịa đến sông Vàm Cỏ; năm 1714 có thêm trấn Hà Tiên; năm 1732 thêm trấn Long Hồ. Năm 1800, vùng Gia Định cũ được đổi thành 4 dinh (Phiên Trấn, Trấn Biên, Trấn Định, Vĩnh Trấn) và một trấn (Hà Tiên). Năm 1808 lại được gọi chung là thành Gia Định, cũng gồm 5 trấn. Năm 1836, đổi thành tỉnh Gia Định. Năm 1876, bỏ tên tỉnh Gia Định, gọi là khu vực Sài Gòn gồm 5 hạt, trong đó có hạt Sài Gòn. Từ 1889 đến 1975, phục hồi tỉnh Gia Định nhưng không bao gồm thành phố Sài Gòn và Chợ Lớn. Ngày nay, Gia Định không còn là địa danh hành chánh mà trở thành địa danh vùng (khu vực trung tâm quận Bình Thạnh).
Theo nhà nghiên cứu lịch sử Nguyễn Đình Tư, năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam lập phủ Gia Định và đặt tên gọi cho một số địa danh. Khi đó, số lượng địa danh rất ít vì mới khai hoang, dân vào chưa đông, cả vùng Sài Gòn - Gia Định này đặt chung là phủ Gia Định. Tên các địa danh đều có ý nghĩa gởi gắm mong ước của người dân về vùng đất ấy. Ca dao xưa nói về sự trù phú của Gia Định viết rằng: “Ai về Gia Định thì về/ Nước trong, gạo trắng, dễ bề làm ăn”. Tên Gia Định cũng được chúa Nguyễn Ánh, sau khi lên ngôi vua, chọn làm một phần trong niên hiệu của mình là Gia Long, ghép từ 2 địa danh Gia Định và Thăng Long, ý chỉ vùng đất cai quản trải dài hai đầu Nam - Bắc.
Gia Định cũng được đặt tên cho một công viên trên đường vào sân bay Tân Sơn Nhất, vốn là sân golf có từ thời Pháp thuộc. Cũng có một họ đạo mang tên Gia Định, là một trong những họ đạo lâu đời của thành phố, nằm bên hông phía sau chợ Bà Chiểu. Xứ đạo này bắt đầu từ một cộng đoàn nhỏ bé gồm một số gia đình sống trên ghe ở rạch Cầu Bông vào những năm 1860. Ngôi nhà thờ Gia Ðịnh hiện nay do cha Phanxicô Trần Công Mưu đứng ra xây dựng, với sự góp sức của kỹ sư Nguyễn Hữu Nhiêu, con rể ông Trương Vĩnh Ký (Pétrus Ký), một cựu chủng sinh quê ở Cái Mơn. Năm 1897, Ðức cha Jean Depierre đã bổ nhiệm cha Lambert làm cha sở đầu tiên của họ Cầu Bông - Gia Ðịnh.
Các phường 12, 14 và 26 sau sáp nhập lấy tên là phường Bình Thạnh, là tên một quận của TPHCM từ ngày 20.5.1976 đến thời điểm trước sáp nhập. Ban đầu quận có 28 phường, rồi giải thể nhập lại còn 20 phường. Tên gọi quận Bình Thạnh ngày nay được hình thành từ sự nhập lại của hai xã thuộc quận Gò Vấp sau năm 1975, là xã Bình Hòa và xã Thạnh Mỹ Tây. Trước đó, cả hai xã này đều là một phần của tỉnh Gia Định.
Các phường 19, 22 và 25 nhập thành phường Thạnh Mỹ Tây. Đây là tên một xã có từ năm 1944, thuộc tổng Bình Trị Thượng, quận Gò Vấp, tỉnh Gia Định, do hai thôn Phú An và Phú Mỹ nhập lại. Xa hơn một chút, ban đầu, vùng đất nằm hai bên bờ sông Sài Gòn có tên là Thạnh Mỹ. Sau này, do khai phá nhiều hơn, đất đai rộng hơn nên chia thành hai xã, bên kia sông là Thạnh Mỹ Lợi (thuộc TP Thủ Đức ngày nay), bên này sông nằm ở phía tây nên gọi Thạnh Mỹ Tây. Như đã nói ở trên, trước năm 1975, Bình Hòa và Thạnh Mỹ Tây là hai xã riêng biệt thuộc quận Gò Vấp; sau năm 1975, hai xã Bình Hòa và Thạnh Mỹ Tây được nâng cấp thành quận Bình Hòa và quận Thạnh Mỹ Tây. Đến tháng 6.1976, hai quận Bình Hòa và Thạnh Mỹ Tây tiếp tục được sáp nhập lại thành quận Bình Thạnh.
Hai phường 27 và 28 nhập lại thành phường Bình Quới. Bình Quới vốn là tên thôn đầu thế kỷ XIX (1820). Bình Quới hiện nay là tên của con đường dài nằm trên bán đảo Thanh Đa. Đường Bình Quới nối với đường Xô Viết Nghệ Tĩnh, đi qua cầu Kinh Thanh Đa. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Tư ghi nhận, đây là tên thôn của tổng Bình Trị, huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, trấn Phiên An năm 1820, bao gồm cả bên kia sông thuộc địa phận TP Thủ Đức. Sau tách ra thành Bình Quới Tây và Bình Quới Đông.
Cuối cùng, phường 5, 11 và 13 nhập thành phường mới Bình Lợi Trung. Đây cũng là tên một làng xưa. Hiện vẫn còn ngôi đình làng Bình Lợi Trung, có sắc phong của vua Tự Đức từ năm 1852, nằm trên đường Đặng Thùy Trâm. Vùng này cũng có một giáo xứ mang tên Bình Lợi, khởi đi từ một nhóm người Công giáo định cư gần cầu xe lửa năm 1960. Bình Lợi sau đó được xem là một giáo điểm thuộc TGP Sài Gòn, đến năm 1975 thì được nâng lên thành giáo xứ, thuộc hạt Gia Định, TGP TPHCM.
Tài liệu tham khảo:
- Từ điển Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh (Thạch Phương - Lê Trung Hoa chủ biên)
- Địa danh ở Thành phố Hồ Chí Minh (Lê Trung Hoa)
- Từ điển địa danh Thành phố Sài Gòn - Hồ Chí Minh (Lê Trung Hoa)
- Đường phố TPHCM ( Nguyễn Đình Tư - Nguyễn Quyết Thắng)
- Sài Gòn Năm Xưa (Vương Hồng Sển)
- Lược sử giáo xứ Gia Định và giáo xứ Phú Nhuận (Tài liệu lưu hành nội bộ)
Minh Hải thực hiện
Bình luận