Huyện Củ Chi sau khi bỏ đơn vị cấp huyện và sáp nhập còn 7 xã, gồm An Nhơn Tây, Thái Mỹ, Nhuận Đức, Tân An Hội, Củ Chi, Phú Hòa Đông, Bình Mỹ.
Các xã Phú Mỹ Hưng, An Phú và An Nhơn Tây nhập thành xã mới tên An Nhơn Tây. Đây là tên một xã của huyện Củ Chi từ sau 30.4.1975. Trước đó, năm 1836, là một thôn của tổng Dương Hòa Trung, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định. Năm 1880, là thôn của tổng Long Tuy Trung, hạt Sài Gòn; năm 1944, vẫn thuộc tổng cũ, quận Hóc Môn, tỉnh Gia Định; từ năm 1956-1975 làmột xã của quận Phú Hòa, tỉnh Bình Dương; sau năm 1975 là tên một xã của huyện Củ Chi, TPHCM.
Các xã Trung Lập Thượng, Thái Mỹ và Phước Thạnh nhập thành xã mới tên Thái Mỹ. Năm 1944, Thái Mỹ là thôn của tổng Long Tuy Hạ, quận Hóc Môn, tỉnh Gia Định; từ năm 1956-1975 là tên một xã của quận Củ Chi, tỉnh Hậu Nghĩa; sau năm 1975 là tên một xã của huyện Củ Chi, TPHCM.
Các xã Nhuận Đức, Trung Lập Hạ và Phạm Văn Cội nhập thành xã mới tên Nhuận Đức. Tên “Nhuận Đức” được lấy cảm hứng từ triết lý “đức nhuận thân”, nhấn mạnh giá trị đạo đức và sự thịnh vượng, cũng là tên một xã trước đây của Củ Chi.
Các xã Phước Hiệp, Tân An Hội và thị trấn Củ Chi nhập thành xã mới tên Tân An Hội. Năm 1944, Tân An Hội là tên một thôn của tổng Long Tuy Thượng, quận Hóc Môn, tỉnh Gia Định; năm 1979, một số ấp của xã được tách để thành lập thị trấn Củ Chi, phần còn lại vẫn mang tên Tân An Hội. Nay là tên một xã rộng lớn như vừa kể.
Các xã Tân Phú Trung, Tân Thông Hội và Phước Vĩnh An sáp nhập lại thành xã mới tên Củ Chi. Củ Chi là tên một quận trước đây của tỉnh Bình Dương, thành lập năm 1956, do tách 2 tổng Long Tuy Thượng và Long Tuy Hạ của quận Hóc Môn, tỉnh Gia Định ra. Năm 1963, tỉnh Hậu Nghĩa được thành lập, một nửa quận Củ Chi vẫn giữ tên cũ, thuộc tỉnh Hậu Nghĩa; nửa còn lại gọi là quận Phú Hòa, vẫn thuộc tỉnh Bình Dương như từ năm 1956. Sau năm 1975, quận Củ Chi của tỉnh Hậu Nghĩa hợp với quận Phú Hòa của tỉnh Bình Dương thành huyện Củ Chi, thuộc TPHCM.
Củ Chi cũng là tên một ngôi chợ có từ 1902. Tương truyền cạnh chợ có một cây củ chi (tức cây mã tiền) lớn, nên dân gọi tên chợ như vậy, lâu dần thành địa danh. Củ Chi cũng là tên một xứ đạo lâu đời. Về địa lý hành chính, ban đầu thuộc xã Tân An Hội, quận Hóc Môn, tỉnh Gia Định; đến năm 1956 thì thuộc xã Tân An Hội, quận Củ Chi, tỉnh Bình Dương; năm 1964 vẫn thuộc xã Tân An Hội, quận Củ Chi nhưng là tỉnh Hậu Nghĩa. Sau 1975 thuộc thị trấn Củ Chi, huyện Củ Chi, TPHCM. Ngôi nhà thờ đầu tiên được xây dựng khoảng năm 1930 (nay thuộc Ấp Bàu Tre). Năm 1945, số giáo dân ở Bàu Tre phải di tản xuống làng Tân An Hội (sau là thị trấn Củ Chi), cùng lúc đó, một số giáo dân ở Bàu Giả, Cây Bàng, Láng The cũng tản cư tới làng Tân An Hội, nên hai nhóm giáo dân hợp thành một. Năm 1960 là điểm mốc đáng nhớ vì Củ Chi làm được ngôi nhà thờ mới và có cha sở chính thức coi sóc.
Các xã Tân Thạnh Tây, Tân Thạnh Đông và Phú Hòa Đông nhập lại thành xã mới tên Phú Hòa Đông. Phú Hòa Đông năm 1820 là một thôn của trấn Phiên An; năm 1944 thuộc quận Hóc Môn, tỉnh Gia Định; năm 1972 là xã của quận Phú Hòa, tỉnh Bình Dương.
Phú Hòa Đông cũng là tên một giáo xứ hiện nay, thuộc hạt Củ Chi của GP Phú Cường. Trước năm 1951, là họ nhánh của giáo xứ Hóc Môn. Sau đó, do nhu cầu mục vụ, một nhà thờ mới đã được xây dựng tại ấp Chợ, xã Phú Hòa Đông, và được đặt tên là Bến Cỏ. Một thời gian sau, Bến Cỏ được nâng thành giáo xứ, mang tên Phú Hòa Đông. Lịch sử giáo xứ ghi lại vào năm 1867, ông Đốc Phủ Ca đã mua đất và góp tiền của xây nhà thờ Hóc Môn. Năm 1895, ông Đốc bàn với cha sở xin các thầy về giúp và đi giảng đạo cho các vùng xung quanh, nhưng số tín hữu vẫn rất thưa thớt. Sau năm 1975, dân các nơi về lập nghiệp tại một vùng đất gần giáo xứ, cũng thuộc xã Phú Hòa Đông, và xin nhập vào xứ Bến Cỏ. Giáo dân lúc bấy giờ vừa là người cựu trào ở Bến Cỏ, vừa của một vùng kinh tế mới như vừa kể, trong khi địa danh Bến Cỏ chỉ là một ấp trong xã Phú Hòa Đông, còn giáo dân là của cả một xã rộng lớn, nên GP Phú Cường đã đổi tên giáo xứ thành Phú Hòa Đông.
Cuối cùng, ba xã Bình Mỹ, Trung An và Hòa Phú nhập lại thành xã mới Bình Mỹ. Bình Mỹ cũng là một cái tên xưa, năm 1972 là một xã của quận Phú Hòa, tỉnh Bình Dương. Bình Mỹ là tên ghép từ hai làng Bình Lý và Tân Mỹ.
Huyện Hóc Môn sau sáp nhập còn 4 xã là Hóc Môn, Bà Điểm, Xuân Thới Sơn và Đông Thạnh.
Các xã Tân Xuân, xã Tân Hiệp và thị trấn Hóc Môn nhập thành xã Hóc Môn. Theo nhiều cách lý giải thì “hóc” là dòng nước nhỏ, môn là cây môn nước. Vì từ “hóc” theo thời gian đã gần như bị mất nghĩa là “dòng nước nhỏ” trong ngôn ngữ Việt, nên người ta thêm từ rạch vào trước cho rõ, gọi là rạch Hóc Môn. Con rạch chảy qua thị trấn Hóc Môn, bắt đầu từ cầu Bến Nọc đến rạch Tra, dài độ 3 cây số. Địa danh Hóc Môn đã xuất hiện từ đầu thế kỷ XIX, từng là một trong 4 trạm hành chính của tỉnh Gia Định năm 1915, đến năm 1917 trở thành quận. Từ giữa năm 1976 được gọi là huyện. Hóc Môn cũng là tên một thị trấn trong vùng, thành lập năm 1977, từ một phần đất của hai xã Tân Thới Nhì và Thới Tam Thôn. Giáo xứ mang tên Hóc Môn có lịch sử từ năm 1854. Ban đầu, việc coi sóc do các thầy và sau đó là các linh mục người Pháp đảm nhận, đến năm 1909 mới có linh mục người Việt đầu tiên coi sóc. Đây cũng là tên một ngôi chợ có từ xa xưa.
Các xã Xuân Thới Thượng, Bà Điểm và Trung Chánh sáp nhập thành xã mới Bà Điểm. Bà Điểm cuối thế kỷ XIX là tên vùng đất ở thôn Tân Thới Nhứt, tổng Bình Thạnh Hạ, hạt Sài Gòn. Tương truyền, Bà Điểm là một chủ quán nước trà tại vùng này. Bà Điểm cũng được đặt cho tên ngôi chợ có từ thế kỷ XIX, và từ năm 1988 trở thành tên một xã của huyện Hóc Môn. Theo tạp chí Nam Kỳ Địa Phận viết năm 1917 thì giáo xứ Bà Điểm xưa gọi là họ Bà Điểm. Họ này do cha Lý (Paulus Galy) lập năm 1863, dưới triều Đức Thánh Giáo Hoàng Piô IX và thời Đức Giám mục Dominique Lefèbvre (Đức cha Ngãi), với số giáo dân bán đầu được khoảng 140 người. Khi quân đội Pháp chiếm đồn Thuận Kiều, vì không biết tiếng Việt nên thi thoảng có nhờ cha Galy làm thông dịch. Cũng trong thời gian này, phần lớn những làng mạc của người Việt Nam vùng Bà Điểm đều chống chính quyền Pháp. Có thời điểm có tin là người Pháp sẽ phá hủy 18 thôn vườn trầu, nên ông Huyện Sở (làm Hương chức trong làng) cùng nhiều người khác tìm cha Galy xin giúp khỏi sự tàn phá đổ nát. Cha Galy đã nói điều đó với các sĩ quan Pháp, nhờ thế những người này được bình an, về sau đã gia nhập đạo. Năm 1863, những người Pháp cho cha Galy miếng đất nhỏ (là chỗ cất nhà thờ hiện nay), để dựng một nhà thờ lợp tranh, vừa làm nhà ở, vừa làm nhà nguyện, đồng thời là nơi dạy giáo lý cho các tân tòng. Như vậy, Bà Điểm cũng là một trong những xứ đạo lâu đời tại TPHCM.
Ba xã Xuân Thới Đông, Xuân Thới Sơn và Tân Thới Nhì sau sáp nhập lấy tên mới là xã Xuân Thới Sơn. Xuân Thới Sơn năm 1836 là tên một thôn của tổng Dương Hòa Thượng, huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định; năm 1880 là tên một thôn của tổng Bình Thạnh Hạ, hạt Sài Gòn, sau đó thuộc tỉnh Gia Định; năm 1972 là một xã của quận Hóc Môn, tỉnh Gia Định. Sau năm 1975 là tên một xã thuộc huyện Hóc Môn, TPHCM.
Ba xã Đông Thạnh, Nhị Bình và Thới Tam Thôn nhập thành xã Đông Thạnh mới. Từ năm 1836, Đông Thạnh là tên một thôn của tổng Lộc Thành Trung, huyện Phước Lộc, tỉnh Gia Định; năm 1944, là tên một xã của tổng Bình Thạnh Trung, quận Hóc Môn, tỉnh Gia Định; sau năm 1975 là tên một xã của huyện Hóc Môn, TPHCM.
Tài liệu tham khảo:
- Từ điển Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh (Thạch Phương - Lê Trung Hoa chủ biên)
- Địa danh ở Thành phố Hồ Chí Minh (Lê Trung Hoa)
- Từ điển địa danh Thành phố Sài Gòn - Hồ Chí Minh (Lê Trung Hoa)
- Đường phố TPHCM (Nguyễn Đình Tư - Nguyễn Quyết Thắng)
- Sài Gòn Năm Xưa (Vương Hồng Sển)
- Gia Định Xưa và Nay (Huỳnh Minh)
- Lược sử giáo xứ Bà Điểm, Củ Chi, Hóc Môn, Phú Hòa Đông (lưu hành nội bộ)
Minh Hải thực hiện
Bình luận